BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 7 tháng 12, 2022

THÁNG MƯỜI HAI – Thơ Lê Phước Sinh


  


THÁNG MƯỜI HAI
 
Âm tiết Thánh Ca
trầm bổng
dìu nhau
quyện sương mờ ảo
Mùa Vọng.
 
Nhận - Cho
Chia sẻ cùng Bánh nhạt
Giọt Nước rẫy
cứu rỗi
hạn hán.
 
Đêm lạnh
Bếp Lửa nhóm cùng
Lời Nguyện giữa Tim
thầm thì
Xòe tay
nắm kết vòng tròn.
 
Đêm rời
Sáng len chân
đứng dậy
Trời rửa mặt
            phía Đông.
 
LÊ PHƯỚC SINH

CHUYỆN CỦA TÔI VÀ CHỊ NGUYỄN THỊ NGỌC DIỆP – Đặng Xuân Xuyến


Tác giả bài viết Đặng Xuân Xuyến

Tôi kết bạn facebook với chị Nguyễn Thị Ngọc Diệp (định cư tại Đức) từ tháng 9 năm 2018, cũng không nhớ "căn duyên" nào đẩy đưa tôi kết bạn với chị trên mạng xã hội nhưng tôi luôn quý trọng chị như tôi trân quý các mối quan hệ khác ở đời thực hay trên mạng xã hội vì tôi quan niệm thêm bạn là thêm niềm vui.

Thứ Năm, 1 tháng 12, 2022

MÁI TÓC CỦA NGƯỜI HÀ NỘI XƯA – Tạ Thu Phong


Hà Nội chuyện xưa phố cũ
Tạ Thu Phong / Tri thức Trẻ BooksNXB Hà Nội

Thời xưa, ở Bắc kỳ, đàn ông hay phụ nữ đều để tóc dài và vấn khăn đầu. Đàn ông tóc búi tó như củ hành thấp dưới gáy.
Cái búi tóc “quốc túy” này đã trở thành biểu tượng của người nho nhã. Khi ở nhà, đàn ông thường để búi tóc trần. Lúc làm việc thì vấn rối hoặc vấn kiểu khăn đầu rìu. Nếu đi đâu cần lịch sự sang trọng thì chít khăn lượt hay nhiễu Tam giang. Khi vấn khăn tạo thành hình chữ “Nhân” hoặc “Nhất” trên trán. Người thị dân mặc áo sa trơn hoặc the thâm dài, quần trắng, đi giày Gia Định.
 

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 3): THỜI HỌC SINH GẬP GHỀNH THƠ MỘNG - Phanxipăng


 
Kỳ 3: THỜI HỌC SINH GẬP GHỀNH THƠ MỘNG

Thời học sinh của Hàn Mạc Tử trải qua 3 địa phương: Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Huế. “Lần đầu tiên Nguyễn Trọng Trí cắp sách đến trường là tại Quảng Ngãi”. Trần Thanh Mại, tác giả cuốn Hàn Mạc Tử, đã ghi nhận như vậy. Ông Bá Tín, qua hồi kí Hàn Mạc Tử anh tôi, còn kể chi tiết hơn:
 
“Chúng tôi rời Đồng Hới năm 1921, theo cha vào Quy Nhơn, trở ra Bồng Sơn, lại trở về Quy Nhơn năm 1924 thì đổi ra Sa Kỳ, một sở thương chánh lớn, cách thị xã Quảng Ngãi 12 km [thực địa thì hơn 20 km - chú thích trong móc vuông là của Phanxipăng]. Trong thời gian gia đình hay đổi dời dọc theo các cửa biển, việc học hành của chúng tôi đã bị gián đoạn. Về Quảng Ngãi mới vào học trường công lập anh Trí học lớp ba, tôi học lớp tư [tương đương lớp 2 bây giờ]. Khi còn ở Quy Nhơn, anh rất thích bắn ná cao su và bắn rất hay.(...). Trong những năm học ở Quảng Ngãi, anh không thèm bắn ná cao su nữa, mà lại rất thích bắn súng. Hai anh em ở trọ nhà dượng tôi, trong nhà cũng có một khẩu Flaubert, thứ súng bắn chim như của cha tôi. Anh trông thấy thèm lắm, nhưng không dám hỏi. Vì vậy, cứ thứ năm, chủ nhật, là kéo tôi cùng về Sa Kỳ, để cha tôi phát cho mỗi đứa 3 viên đạn, mà phải đi bộ 12km, phải qua một chuyến đò, băng qua một động cát dưới trời nắng chang chang. (...). Về sau, bài văn xuôi Chơi giữa mùa trăng, anh viết về chợ Chua Me [dân quanh vùng vẫn gọi Châu Me], là động cát này. Địa phương gọi là động, một vùng rộng lớn, cát trắng phau, thứ cát ánh ngời như mảnh pha lê vụn, trải dài 4 - 5km bên bờ đại dương (...). Sau khi cha tôi mất đi, tháng 7-1926, gia đình tôi dọn về Quy Nhơn ở với anh Mộng Châu. Hai chúng tôi cùng vào học trường trung Quy Nhơn [Collège de Quinhon, thành lập 1921, thực tế gồm cả tiểu và trung học, tên tiếng Việt bấy giờ là Cao đẳng tiểu học Quy Nhơn, sau thành Quốc học - Quy Nhơn, nay là trường THCS Lê Hồng Phong]. Đến lớp nhất [tương đương lớp 5 bây giờ], anh Trí ra Huế học Pellerin” (trích cảo bản đánh máy, tr. 6-8).
 

PHỐ MÙA ĐÔNG, MIỀN HOA TÍM CŨ, TÌNH SEN DUYÊN SÚNG – Thơ Tịnh Bình


   
            Nhà thơ Tịnh Bình

 
PHỐ MÙA ĐÔNG
 
Sớm mai phố lạ
Dường như đông về
Tiếng chim ngơ ngác
Thả lời say mê
 
Khăn sương mắt ướt
Tiễn lá rời cành
Mùa đông nho nhỏ
Hát lời rêu xanh
 
Người về nẻo phố
Bước chân ngập ngừng
Vỉa hè nắng đổ
Chút tình rưng rưng
 
Quán quen trà ấm
Mời nhau nụ cười
Ngọt ngào cơn bấc
Vui buồn đầy vơi
 
Chào nhau cuối phố
Lạnh rồi hơi đông
Từng cơn gió rét
Phả vào mênh mông...
 

BÀI THƠ “CÁI TÔI” CỦA NHÀ THƠ ÁI NHÂN THI SĨ – Đặng Xuân Xuyến


Nhà thơ Ái Nhân

Nhà thơ Ái Nhân Thi Sĩ (có thêm các biệt danh là Ái Nhân Bùi, Vua Mộng...) viết bài thơ “Cái Tôi” từ 26 tháng 04 năm 2020, như tự răn mình, như trách người, trách đời... đã để “cái tôi tiêu cực” chi phối cuộc sống, phủ mờ và làm tổn thương các mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội.
 
CÁI TÔI
 
Cái tôi mày xấu quá chừng
Vì mày tao cũng đã từng đắng cay
Ngạo đời, kệch cỡm khoe say
Biết đâu cũng giống mây bay vô thường
 
Oai phong vênh váo hoang đường
Hư danh bao gã cũng phường thảo mai
Vì mày ối đứa tưởng oai
Kiêu căng một đám choai choai khoe tiền
  
Cái tôi gieo rắc tỵ hiềm
Tan như bong bóng rơi miền… ảo hoang
 
                       Hà Nội, 26 tháng 4, 2020
                          Ái Nhân Bùi Cao Thế
 
*
Tác giả bài viết Đặng Xuân Xuyến


BÀI THƠ “CÁI TÔI” CỦA NHÀ THƠ ÁI NHÂN THI SĨ
                                                                   Đặng Xuân Xuyến
 
Những câu thơ hao hao dáng dấp “văn nói xếp vần” (có thể do Ái Nhân Bùi vội viết theo cảm hứng) của "Cái Tôi" có hiệu ứng tức thì với người đọc bởi sự trút giận thẳng tưng theo lối chì chiết chẳng cần e dè, chẳng cần kiêng nể của nhà thơ Ái Nhân Thi Sĩ với thói kiêu ngạo, đố kỵ, điêu chác, háo danh, hoang tưởng... của lòng người, của thói đời mà bất kỳ ai cũng ít nhiều đều có.
 

GIÁ CHÚNG TA GIỮ ĐƯỢC TÂY NGUYÊN NHƯ BHUTAN - Nguyên Ngọc


Nhà văn Nguyên Ngọc (ngồi giữa) chụp hình lưu niệm cùng cô trò trường THPT Nguyễn Hữu Huân – Thủ Đức – những người quý mến ông qua tác phẩm Rừng Xà Nu.
Ảnh: Đức Tâm
 
Tôi lên Tây Nguyên lần đầu năm 1950 và đến nay đã trải qua 66 năm gắn bó với mảnh đất này. Nơi đây không chỉ cứu sống và nuôi dưỡng tôi qua hai cuộc kháng chiến mà còn dạy tôi nhiều điều về minh triết trong cuộc sống.
 
Tây Nguyên rất đặc biệt, nhưng cũng rất đáng lo. Tôi mong mọi người hãy nghĩ, hãy đến Tây Nguyên và làm gì đó để cứu mảnh đất này. Nói đến Tây Nguyên là nói đến rừng và làng. UNESCO đã rất tinh tế nhận ra khi công nhận di sản văn hóa thế giới của Tây Nguyên, không phải là cồng chiêng, cũng không phải là âm nhạc cồng chiêng, mà là không gian văn hóa cồng chiêng, tức không gian làng, với rừng của làng. Rừng và làng chính là không gian văn hóa của Tây Nguyên. Không còn hai yêu tố này, sẽ không còn văn hóa Tây Nguyên, hoặc nếu có, cũng không còn là văn hóa thật.
 

MÙA NƯỚC NỔI QUÊ TÔI – Thơ Đan Thuỵ


   


MÙA NƯỚC NỔI QUÊ TÔI
 
Chiều ruộng gió làn heo may nhẹ thoảng
Bên thềm thu vừa chạm xuống bến ngày
Nghiêng nghiêng bóng chân trời viền sắc đỏ
Mai nắng về
vàng cúc khỏa mênh mông
 
Thương đồng vắng
mùa này đang nước nổi*
Phía chân trời đàn cò trắng nghiêng bay
Xóm quê tôi
năm hai mùa mưa nắng
Nghe chiều đi
theo con nước lớn ròng
 
Giàn hoa mướp
bình minh vàng sắc nắng
Chú chuồn kim bỡ ngỡ mải mê nhìn
Ngày tháng chín cơn mưa chiều nặng hạt
Ruộng nước đầy
thuyền giăng lưới nhẹ trôi
 
Đêm xuống chậm
nghe cuốc kêu gọi bạn
Ba tôi ngồi câu chuyện kể mênh mông
Dáng mẹ gầy bên chong đèn ngồi vá
Đường chỉ may đan kết những vui buồn…
 
                                               Đan Thụy
 
* Mùa nước nổi: Là mùa nước dâng cao.
 
....................................
    
Tên thật: Đàm Thị Hải
Hiện đang sống và làm việc tại Công ty Tây Ninh SinCoCo
KM27, QL22B, Long Thành Nam, Hoà Thành - Tây Ninh
Điện thoại: 0918266282
Email: damhaitn@gmail.com
 

Thứ Ba, 29 tháng 11, 2022

THỊ XÃ QUẢNG TRỊ MÙA NÀY – Thơ Đỗ Tư Nhơn, Võ Thị Như Mai chuyển ngữ


 

 
THỊ XÃ QUẢNG TRỊ MÙA NÀY
 
Thị xã rêu phong cổ tích
Thành Cổ, tường thành vỡ nát
Dòng sông không còn trong sạch
Ký ức niên thiếu hoang tàn
Người già lom khom ngồi nhớ
Bạn bè cùng dưới mái trường
Như loài thiên di bay hết
Một ngày nghe tin bạn chết
Lặng im thắp một nén hương
Luân hồi đi theo chữ nghiệp
Vui buồn, thương ghét khôn lường.
 
                                  Đỗ Tư Nhơn

MƯỜI BÀI THƠ TỨ TUYỆT CỦA NGUYÊN LẠC


   
                             Nhà thơ Nguyên Lạc

 
1. ĐÊM CHIA PHÔI
 
Ngấn lệ từ li mặn đắng môi
Cho nhau cho hết lúc chia phôi
Hành trang cuộc lữ đêm tình giữ
Mai phố nghìn xa chút hương người

 
2. ĐÊM CUỐI NĂM
 
Chong khuya lệ nến tiếng đêm trôi
Sầu khúc Hương xưa dáng ai ngời?
Đón Tết nơi nầy đêm trắng quá!
Rơi chi bông tuyết buốt tim người?!

 
3. TRẦM TƯ ĐÊM BÊN SÔNG
 
Tóc rồi sương điểm theo năm tháng
Sắc cũng tàn phai theo tuổi đời
Ai xui trăng rụng trên dòng lắng
Một kiếp người thôi thế nhân ơi!
 
 
4. PHONG VŨ
 
Phong là gió nhưng chắc đâu là gió?
Vũ là mưa nhưng có phải mưa đâu?
Khanh ơi gác trọ dâng hương sắc
Phong vũ nghìn năm cố lý sầu!
 
 
5. ĐÊM MƯA THU
 
Giọt mưa nào lăn tròn trên lá nhớ?
Tí tách nào nhắc nhở thuở yêu em?
Trong ký ức tận cùng đêm mưa đó
Trăm năm dù dâu bể cũng không quên!
 
 
6. CĂN BỆNH TÌNH YÊU
 
Tình yêu căn bệnh lạ lùng
Ai mà nhiễm phải không khùng cũng điên
Điên thì ta hãy cứ điên!
Yêu thì ta cứ! Có phiền em không?
 
 
7. TỘI CHO QUA
 
Gió lay rụng trái mù u
Giận ai bậu nói đi tu cho rồi?
Tội cho qua lắm bậu ơi!
Bậu đi tu chắc sự đời qua xong!
 
 
8. ÁO HỞ DẬY THÌ
 
Mơ màng em giấc chiêm bao
Gió lay áo hở hoa đào phương phi
Anh nghe tiếng gọi tình si
Mãn khai hiển lộ dậy thì... điếng anh!
 
 
9. MÙI HƯƠNG ĐÊM NÀO
 
Cánh đồng trăng khuyết thầm thì
Ôm em thân quế nhu mì mến thương
Bể dâu một thuở đoạn trường
Thiên thu vẫn mãi mùi hương đêm nào!
 
 
10. GIÓ CHIỀU
 
Chiều nào gió nhẹ bên nương
Thổi em hở áo ngực hường chín cây
Có người không rượu mà say
Trăm năm vẫn nhớ ửng hây chiều chiều
 
                                           Nguyên Lạc

MƯA ĐÔNG HẠT MÉO HẠT TRÒN – Thơ Lê Phước Sinh


  
               Nhà thơ Lê Phước Sinh
 

MƯA ĐÔNG HẠT MÉO HẠT TRÒN
 
Chim Bói Cá nghiêng cổ nhìn trời
sợi mưa lơ lửng
lành lạnh
Thấp thoáng
điểm mặt cuối năm
cái ăn cái uống
dãn rộng ra
giờ phải co vào
bập bùng
khu trú
Mây xám thờ thững
đi tìm sợi nắng
lạc độ chốn nào
Tìm những vòng tay
bếp lửa
ma trơi
ẩn hiện.
 
Lê Phước Sinh

LÀ HỒ ĐIỆP, LẠI LỤC BÁT, LÊN XUỐNG – Thơ Chu Vương Miện


  


LÀ HỒ ĐIỆP
 
lúc lại là hồ điệp
lúc thôi đành Trang Sinh
nhẩm pho kinh một lúc
ờ tứ đại giai không?
hoa sứ rơi trên suối
đục trong chẩy một dòng
 
chuông thu không tịnh độ
danh lợi lầm bến mệ
chạy vội theo hư ảnh
quên mất luôn lối về
mấy vầng trăng cổ độ
trước mặt mất đàm khê
bên hông là đá lũng
ta là ai? bây giờ
 
gõ mãi trên mõ gỗ
dộng mãi quả chuông đồng
gỗ kêu theo âm gỗ
hồng chung vọng hồng chung
mỏi tay gần suốt kiếp
hiểu gì? được chữ không ?
 
niệm xong một bài kinh
con chim bay khuất khuất
chiếc lá giữa lòng đường
chờ tái sinh kiếp khác
ta vẫn chỉ là ta
sao kiếp xưa đi lạc
 

THƠ HAIKU, NGƯỜI ĐIÊN, CÁNH ĐỒNG TÌNH – Trần Mai Ngân


   


THƠ HAIKU
 
** Thế giới này
Bao nhiêu đường chim bay
Tôi mãi tìm ai…
 
** Khi nào tôi chết
Sẽ đẹp như mùa Thu
Không khóc!
 
** Để lại đôi dòng thơ
Tập di cảo ố vàng
Giấc Thuỵ Du!
 
** Một tia chớp giữa khuya
Bừng sáng đêm tăm tối
Soi đường cánh vạc bay
 
** Sự yên lặng của đá
Trăm năm, nghìn năm
Vọng âm lời cũ!
 
          Trần Mai Ngân
 
P/S: Kính nhớ Thầy Lưu Đức Trung

Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2022

ĐỊA LÀ ĐẤT - Phiếm luận của Đỗ Chiêu Đức



Thổ là Đất, Địa cũng là Đất, là Địa Cầu 地球 , là qủa đất mà chúng ta đang cư trú. Theo bài học thuộc lòng của lớp Đồng Ấu ngày xưa:
                   
Đi cho biết đó biết đây,                  
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.                  
Kìa thế giới năm châu quanh quất,                   
Đường bao nhiêu thì đất bấy nhiêu,                   
Sông to núi lớn cũng nhiều,                   
Đường đi lối lại trăm chiều ngổn ngang...
      
Thế giới có Năm Châu Bốn Biển.     
Năm Châu là:
       Châu Á, Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ và Châu Úc ( còn gọi là Châu Đại Dương  ). Nhưng theo quy ước của đa số các nước trên thế giới thì có đến 6 Châu, vì sau nầy người ta còn khám phá ra một vùng đất mới ở Nam Cực, gọi là Châu Nam Cực. Nhưng... lại nhưng, theo Mỹ thì Châu Mỹ gồm 2 châu lục là Nam Mỹ Châu và Bắc Mỹ Châu. Nên Thế Giới của người Mỹ có đến 7 châu lục, chớ không còn là 5 châu nữa ! Còn ...
      
Bốn Bể là bốn Đại Dương gồm có:
        Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương. Ngày trước còn có thêm một Nam Băng Dương nữa, vì người ta cứ ngỡ là nếu băng tan chảy hết thì sẽ là một đại dương như ở vùng Bắc Cực, nhưng nay đã biết rằng nó là một châu lục : Châu Nam Cực chớ không phải là một băng dương nữa !
 
                      

Bốn Biển là do từ Tứ Hải 四海 của người Hoa mà ra. Khi xưa, khoa học địa lý chưa phát triển, người Hoa cứ tưởng Thiên Hạ là đất Trung Nguyên, và mảnh đất nầy được bao quanh bởi 4 biển Đông Tây Nam Bắc. Theo cái Thế Giới Quan nầy, Bốn Biển tức là Thiên Hạ đó, cho nên trong thi từ ca phú của văn học xưa hay nhắc đến câu: Tứ Hải giai Huynh đệ 四海皆兄弟"Bốn bể đều là anh em". Vân du tứ hải 雲遊四海 là: Lang bạt khắp nơi, và để chứng tỏ có chí hơn người còn lớn giọng mà ngâm rằng: Đại trượng phu tứ hải vi gia 大丈夫四海為家 là: Đấng đại trượng phu thì lấy bốn biển làm nhà, để tỏ ra ta đây có chí lớn !
 

TINH THẦN BẤT NHỊ TRONG THƠ NGẮN ĐỖ NGHÊ - Tâm Nhiên


Tác giả Tâm Nhiên và nhà thơ bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Đỗ Nghê là bút hiệu của Đỗ Hồng Ngọc. Anh sinh năm 1940 tại Phan Thiết, Bình Thuận. Tốt nghiệp Tiến sỹ Y khoa Quốc gia, Sài Gòn (1969) là bác sỹ chuyên khoa Nhi.
 
Ngoài việc làm giảng viên tại Đại học Y khoa Sài Gòn, anh còn là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Viết nhiều thể loại đa dạng, đặc biệt gần đây, anh viết chuyên sâu về Phật học, Thiền học với các tác phẩm giá trị, được rất nhiều độc giả mến mộ, ưa thích.
 
Bình đạm mà thiết tha với thi ca, Đỗ Nghê đã xuất bản 6 thi phẩm, tập mới nhất gần đây là Thơ ngắn Đỗ Nghê, do Văn Hóa-Văn Nghệ xuất bản 2017. Mở đầu tập thơ là bài Trái đất:
 
Giữa đêm
Thức giấc
Giữa ngày...
 

MẸ QUÊ – Thơ Lê Kim Thượng


   
                      Nhà thơ Lê Kim Thượng
 

MẸ QUÊ 1-2
 
1.
Nhớ Quê… nhớ nhất bóng hình
Dòng sông – Bến nước – Mái đình – Cây đa
Người còn mê mãi phương xa
Quê hương giờ cũng chỉ là… “Quê xưa”…
Nắng xuyên qua lá cây dừa
Chênh chao bóng Mẹ, sớm trưa đi về
Quần nâu, áo vải, nón mê
Chợ tàn, mua gói kẹo quê làm quà
(Con giờ lưu lạc phương xa
Vẫn còn vị ngọt, đậm đà hương yêu…)
Vui vui tiếng vịt kêu chiều
Được mùa sân trước mọc nhiều đụn rơm
Óng vàng hạt lúa thảo thơm
Mồ hôi lắng đọng bát cơm ngọt đường
Gió hòa, mưa thuận… Trời thương
Ngát thơm hương lúa bên đường dịu êm…
Chiếu mê trải giữa sân thềm
Một nồi khoai luộc, khói lên nồng nàn
Bà ngồi kể chuyện khàn khàn
Truyện xưa, tích cổ… thế gian, dị thường…
 
2.
Đêm đêm, nằm nhớ Quê hương
Xót xa cho Kẻ Sông Tương ngược dòng
Một đời luân lạc, long đong
Một đời phiêu bạt, lưu vong dãi dầu
Xưa rồi: “ Người ạ… còn đâu?”
Tàn đêm khói thuốc bay màu mông lung
Cung Mi Thứ… Phím đàn chùng
Nốt Si buồn thảm lạnh lùng trong tim
Lời ca đứt đoạn im lìm
Tứ thơ rơi vãi lặng chìm giấc mơ
Nhà xưa… Ai đợi, ai chờ
Chiều mưa nỗi nhớ ướt mờ…vỡ tan
Còn đâu ô cửa Dạ Lan?
Cánh hoa Tuy Líp rã tàn trống trơn
Tàn đêm… giấc ngủ cô đơn
Tiếng gà xứ lạ dài hơn Quê mình
Bây giờ cuối cuộc hành trình
Bước ra từ cõi say tình rong chơi
Bây giờ đã cuối cuộc đời
Nghe câu “Gần đất… xa Trời” mà đau…
       
                 Nha Trang, tháng 11. 2022              
                       LÊ KIM THƯỢNG