BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 21 tháng 6, 2017

VÀI LỜI TẢN MẠN VỀ CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI - Nguyễn Đăng Hành


          
               Nhà thơ Nguyễn Khôi


  VÀI LỜI TẢN MẠN 
  VỀ CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

Tôi từng đọc chân dung các nhà văn đương đại của Xuân Sách, Đỗ Hoàng, Trần Nhương, Hồ Bá Thâm… Con số có tới hàng ngàn, nghe đâu trên ba ngàn khuôn mặt “danh giá” đã được ra lò, trong lúc hiện nay Hội nhà văn Việt Nam tổng thể chỉ có hơn ngàn.
Nay lại được chiêm ngưỡng 99 chân dung nhà văn Việt Nam đương đại của Nguyễn Khôi. Chà chà… Văn tài như “lá rụng mùa thu”, phen này đất Việt Văn Hiến lại bùng nổ nhân tài “đặc biệt” kỳ vĩ đây. Mỗi người mỗi vẻ: Xuân Sách quả là chín rưng rức, tràn trề thăm thẳm, góc cạnh sắc sảo, uyên thâm, uyên bác; Đỗ Hoàng đa năng táo bạo, giọng điệu sàng xê bay nhảy thủy hỏa tương giao; Hồ Bá Thâm dò dẫm dàn dựng, gắng gượng đưa đẩy; Trần Ngọc Sơn đều đều cần mẫn trơn tru tuồn tuột; Trần Nhương tự tin khôn khéo dụng công trau chuốt, công năng dàn trải,… Mỗi ông đều là những vị thủ kho mẫn cán, thu thập hồ sơ tên tuổi tác phẩm quá khứ hiện tại rồi lắp ghép, sắp đặt thành chân dung, thoáng đọc thoảng nghe cũng thỏa mãn cái tò mò, bức xúc nhưng xem kỹ đọc nhiều thì nhàm nhạt, ngấy ngộ... Theo tôi, đã là chân dung thì phải lột tả, phác thảo, khắc họa khuôn mẫu, cũng như thợ vẽ thợ ảnh phải đứng ở góc độ, chớp đúng thời cơ mà vẽ, mà chụp cái thần sắc để thành ảnh sống động, khí sắc thăng hoa, rồi mà treo ngắm, thưởng lãm... Còn bác Nguyễn Khôi nhà ta thì sao? Rất tốc độ, thật lòng, thật sự ra công cố sức đôi khi nín thở, dồn hơi, gắng bứt vượt, cố đèo bòng... Có lẽ bởi cái bóng cái tán của Xuân Sách, cái áp lực của 200 công trình bài bản kỳ khu của Trần Nhương... Và thêm phần tuổi tác sức khỏe nên tác phẩm của bác phần nhiều viết bằng chí năng nên phần dương khí cương cường lộ liễu, nhiều câu na ná, công thức bài bản, xem mặt kể tên, lấy sự kiện sự việc, sự thật các câu chữ số phận của mỗi “nhà” rồi sắp đặt lắp ghép thành “chân dung” nên cứ na ná, trùng lẫn. Ngay cái tít Chân dung 99 nhà văn Việt Nam đương đại đã thấy rầm rộ hoành tráng quá, giá tác giả hạ bút đặt tên Thoáng nét người văn tôi tâm ý hoặc chẳng cần quốc hiệu đương thời bảo lãnh thì sẽ nhẹ nhàng dễ gần dễ cảm hơn. Dù sao tôi cũng vô cùng cảm phục lão thi sĩ, lý do đầu là ở cái tuổi lẽ ra cụ cứ ngự lãm khề khà trà rượu, cháu chắt hầu hạ kính cẩn ấy thế mà cụ vẫn cố dồn công lực phát tiết nội sinh làm nên tác phẩm lưu danh hậu thế. Thứ hai là cụ đã hùng dũng thẳng thắn, khảng khái không kiêng sợ các “đền đài thần thánh” một thời thiêng liêng ngự trị. Thứ ba là từ trái tim nhân hậu, tâm hồn khoáng đạt và sự từng trải, tác giả đủ bản lĩnh dũng cảm dám lên tiếng bảo vệ nhân văn, nhân quyền, nhân phẩm, sự thật và dân chủ. (Đúng ra là phải dẫn chứng cụ thể nhưng vì khuôn khổ bài viết vậy mời bạn đọc tìm đọc tác phẩm của Nguyễn Khôi sẽ rõ:/chan-dung-99-nha-van-viet-nam-uong-ai.html.) Thứ tư, tác giả nhân ái, công tâm, giàu tin đỡ lớp trẻ, người chưa có điều kiện, tác phẩm mới lấp ló cánh cửa văn chương hoặc chưa nổi bật, chưa khác biệt đặc biệt… mà viết chân dung văn học thì tiêu chuẩn đầu tiên là phải tìm kiếm, điểm danh, lựa chọn, tuyển chọn những gương mặt đặc biệt khác biệt, hữu danh tài đức, đã có tác phẩm vang dội, gây ảnh hưởng lớn trong xã hội... Mọi sự so sánh đều khập khiễng, soi mói, dòm ngó chê bai thì “chó nó cũng làm được”. Thôi, có nụ mừng nụ, có hoa mừng hoa, chúng ta hãy chúc mừng tác phẩm đã mẹ tròn con vuông, đã thành sách truyền bá, xin “Kính tích tự chỉ.”.

Thứ Bảy, 3 tháng 6, 2017

NGẪM MÀ HỔ THẸN VỚI "CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN ĐƯƠNG ĐẠI" CỦA NGUYỄN KHÔI - Lê Mai


           
                    Nhà văn Lê Mai


NGẪM MÀ HỔ THẸN VỚI "CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN ĐƯƠNG ĐẠI" CỦA NGUYỄN KHÔI

 Chẳng hiểu sao, đột nhiên trên "mạng" @ và trong xã hội hồi này lại ồn ĩ lên chuyện "Chân dung các Nhà văn"... hết Xuân Sách, đến Trần Nhương, Đỗ Hoàng rồi lại Nguyễn Khôi... Lê Mai tôi thấy có cái gì đó bức xúc, không bình thường trong đời sống xã hội, mà cụ thể là trên Văn đàn đương đại của ta  hôm nay. Đó là ngẫu nhiên hay tất nhiên của dòng chảy lịch sử ? Thiển nghĩ, văn chương của cái thời minh họa - trại lính- "tố cáo", "nâng bi" lừa mị đến trơ trẽn... thứ văn chương đó đã đóng góp được gì cho Nhân dân, cho Tổ Quốc ?có xứng đáng cho người đời khắc họa Chân dung các Nhà văn. Phải chăng đó là hiện tượng "tự sướng", đầy ngộ nhận của các Văn nghệ sĩ?
  Tuy nhiên,  khi ta đọc Xuân Sách và Nguyễn Khôi (cách nhau 25 năm,mỗi người một vẻ) thì tưởng vậy mà không phải vậy!

Thứ Sáu, 2 tháng 6, 2017

NGÀY MAI XA PHỐ - Thơ Phạm Tường Đại

Tưởng nhớ nhà thơ niên trưởng Phạm Tường Đại nhân ngày giỗ của ông.

    
               Nhà thơ Phạm Tường Đại 
                        (1930 - 2008)

         NGÀY MAI XA PHỐ
         (Tặng Nguyễn Hiền và các đồng nghiệp tôi)

         Ngày mai xa phố xa phường
         Phượng hồng ở lại sân trường buồn không?
         Tắc kè bỏ lớp đi rông
         Lục bình ép xác bờ nông rã hè.
         Trường tan ngã bóng hàng me
         Ríu ran chân sáo đi về còn đâu
         Bao năm thắp ngọn đèn dầu
         Chia nhau từng mẩu phấn màu mà vui.
         Ngày mai xa phố xa người
         Nhòe trong nỗi nhớ nụ cười trẻ thơ
         Nụ cười xanh thắm ước mơ
         Nối vòng tay rộng bài thơ cuộc đời.
         Cánh chim bay nhớ khoảng trời
         Ngày mai xa phố nhớ người phố xa.

                           PHẠM TƯỜNG ĐẠI
                                       1998

Thứ Ba, 30 tháng 5, 2017

BIÊN CƯƠNG HÀNH - Thơ của Phạm Ngọc Lư và cảm nhận của Huỳnh Xuân Sơn

Anh Phạm Ngọc Lư sinh năm 1946 (Bính Tuất) ở Vĩnh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên. Ngụ cư Đà Nẵng từ 1994. 
Cựu sinh viên Hán Học Viện và Đại học Văn khoa Huế. 
Tốt nghiệp trường Quốc gia Sư phạm Quy Nhơn.
Bước vào con đường văn chương (viết trên các tạp chí Văn, Khởi Hành, Ý Thức, Bách Khoa) trong những năm sống và dạy học ở Tuy Hòa trước năm 1975.
Anh vừa mới đi về miền miên viễn ngày 27-5-2017 tại Đà Nẵng.

            
           
                 BIÊN CƯƠNG HÀNH

                 Biên cương biên cương chào biên cương
                 Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
                 Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
                 Núi chập chùng như dãy mồ chôn
                 Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết
                 Thổi lấp rừng già bạt núi non
                 Mùa khô tới theo chân thù địch
                 Ta về theo cho rậm chiến trường
                 Chiến trường ném bẹp núi
                 Núi mang cao điểm binh như vãi đậu
                 Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
                 Lớp lớp chồm lên đè ngút oan hờn
                 Đá mang dáng dấp hình chinh phụ
                 Trơ vơ chóp núi đứng bồng con
                 Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
                 Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương
                 Biên cương biên cương đi biền biệt
                 Chưa hết thanh xuân đã cùng đường
                 Trông núi có khi lầm bóng vợ
                 Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương
                 Thôi em, sá chi ta mà đợi
                 Sá chi hạt cát giữa sa trường
                 Sa trường anh hùng còn vùi dập
                 Há rằng ta biết hẹn gì hơn?
                 Đây biên cương, ghê thay biên cương !
                 Núi tiếp rừng, rừng tiếp khe truông
                 Hãi hùng chưa trời hoang mây rậm
                 Mùa mưa về báo hiệu tai ương
                 Quân len lỏi dưới tàn lá dữ
                 Lá xôn xao xanh mặt hoảng hồn
                 Sát khí đằng đằng rừng dựng tóc
                 Ma thiêng còn ngán bọn cô hồn
                 Cô hồn một lũ nơi quan tái
                 Có khi đã hóa thành thú muông
                 Cô hồn một lũ nơi đất trích
                 Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng
                 Chém cây cho đỡ thèm giết chóc
                 Đỡ thèm môi mắt gái buôn hương

                 Đây biên cương, ghê thay biên cương!
                 Tử khí bốc lên dày như sương
                 Đá chảy mồ hôi rừng ứa máu
                 Rừng núi ơi ta đến chia buồn
                 Buồn quá giả làm con vượn hú
                 Nào ngờ ta con thú bị thương
                 Chiều hôm bắt tay làm loa gọi
                 Gọi ai nơi viễn xứ tha phương?
                 Gọi ai giữa sơn cùng thủy tận?
                 Ai người thiên cổ tiếc máu xương?
                 Em đâu, quê nhà chong mắt đợi
                 Hồn theo mây trắng ra biên cương
                 Thôi em, yêu chi ta thêm tội
                 Vô duyên xui rơi lược vỡ gương
                 Ngày về không hẹn ngày hôn lễ
                 Hoặc ngày ta mắt nhắm tay buông
                 Thôi em, chớ liều thân cô phụ
                 Chiến trường nay lắm nỗi đoạn trường
                 Nơi nơi lạnh trăm dòng sông Dịch
                 Kinh Kha đời nay cả vạn muôn
                 Há một mình ta xuôi biên tái
                 “Nhất khứ bất phục phản” là thường!

                Thôi em, còn chi ta mà đợi
                Ngày về: thân cạn máu khô xương
                Ngày về: hôn lễ hay tang lễ
                Hề chi! Buổi chinh chiến tang thương
                Hề chi! Kiếp cây rừng đá núi
                Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương.

                                           PHẠM NGỌC LƯ
                                             Tháng 5. 1972  

Thứ Ba, 23 tháng 5, 2017

SỰ THẬT VỀ TÁC GIẢ CỦA VỞ KỊCH THƠ “BÓNG GIAI NHÂN” - Hoàng Cầm

           Gửi Yến Lan, một nỗi nhớ, một niềm thương
           Ký tên Hoàng Cầm

                 
                           Nhà thơ Hoàng Cầm

SỰ THẬT VỀ TÁC GIẢ 
CỦA VỞ KỊCH THƠ “BÓNG GIAI NHÂN”
(Ai là tác giả của vở kịch thơ Bóng giai nhân - Hoàng Cầm)
                             Lâm Bích Thủy sưu tầm và giới thiệu

 “Trong lịch sử văn học và nghệ thuật của loài người, ngay từ những thế kỷ đầu trước và sau Công Nguyên, hầu như ở dân tộc nào cũng đôi khi xảy ra vài ba chuyện nhầm lẫn ở bộ môn này, bộ  môn khác  mà về sau các nhà làm văn hóa sử thường vấp phải những điều khó bình luận, khó phân giải. Rồi họ thấy tiếc, tiếc rằng đã không biết rõ sự thật về một bức tranh, một bài thơ, một câu chuyện kể, càng tiếc hơn khi không biết thật đúng về đời sống và tác phẩm của một thi hảo, một danh họa nào đó. Ở ta chỉ mới vài trăm năm , trường hợp Hồ Xuân Hương là một ví dụ
Đến thời đại chúng ta, nếu những người đương thời với một số văn nghệ sĩ lại làm ngơ trước một vài sự thật bị nhầm lẫn (trong khi mọi mặt thong tin đã có nhiều điều kiện khoa học tân tiến để xác minh bất cứ một vấn đề to nhỏ nào trong đời sống v8n hóa của một dân tộc, một đất nước, thì tôi nghĩ đấy có thể trở thành một tội lỗi đối với những thế hệ mai sau. Vì bản chất loài người là luôn luôn khao khát được biết, được hiểu những sự thật lịch sử của riêng từng dân tộc.

Thứ Tư, 10 tháng 5, 2017

CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI - Thơ Nguyễn Khôi

Lời thưa: Được nhà văn Lê Xuân Quang (Berlin) khuyến khích, theo gót nhà văn Xuân Sách, nhà thơ Đỗ Hoàng, nhà thơ Trần Nhương, với tiêu chí “văn là người”, Nguyễn Khôi tôi dùng thơ 4 câu phác họa chân dung 99 nhà văn mà mình mến mộ. Xin được chia sẻ cùng các bạn thơ.

            
                   Nhà thơ Nguyễn Khôi

CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
                                                                         
           1. TỐ HỮU
           Tự nhận mình là Lành
           Mọi người thấy rất dữ
           mác lê bọc bằng Thơ
           Đã đâm chỉ có “tử”.

           Tung hoa máu xung trận
           là Hịch chống xâm lăng
           lời Thề với Đảng, Bác
          “Từ ấy”, “Sáng tháng Năm”

            2. CHẾ LAN VIÊN
            Tài thơ đến như  Chế
            Đời  thật khó khen chê
            Bẻ cành phong lan bể
           “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”.

            Bắn pháo hoa Tư tưởng
            Vờ khóc nước non Hời
            Tháp Bay On bốn mặt
            Giấu đi mặt ma trơi.

            3. SÓNG HỒNG
            Thơ văn là bom đạn
            Lật đổ/ phá cường quyền
           “Đổi mới” phải sự thật
            Đọc Ức Trai đêm đêm.

            4. LÊ ĐỨC THỌ
            Thơ: mực hòa máu viết
            Người hùng - quyền thứ hai
            Giải Nô ben thứ thiệt
            Ai thấy cũng bye bye. (bai bai)

            5. HOÀNG VĂN HOAN
            Anh Ba quy: Việt gian
            Sang nương vây lão Đặng
            Xuống địa phủ viết văn
            Gặp cụ Hồ đặng đặng?

            6. XUÂN THỦY
            Trùm đàm phán Paris
            Lịch lãm và trí thức
            Bị “nạn” thì làm thơ
           “Không giam được trí óc”

            7. TRẦN ĐĨNH
            Chính sự theo “đèn cù”
            “Bất khuất” nên bị thiến
            Đang diễn hề hầu vua
            Hí trường đột tai biến!

           8. VIỆT PHƯƠNG
           “Cửa mở” hở hậu cung
           “Lụy” mấy ông xuất bản
           - Ta cái gì cũng Hồng
           - Địch cái gì cũng Xám
           - Trảm!

           9. HỮU THỈNH
           “Thư mùa đông” cho lính
           Thơ xoàng xĩnh lên ngôi
           Điếu văn “hot” tới đỉnh
           Trơ ghế cao anh ngồi.

Thứ Hai, 8 tháng 5, 2017

MẸ - Thơ La Thụy


                   

            MẸ

            Dù thân thấm đẫm bụi đời
            Và tóc con chớm điểm màu sương
            Nhưng với mẹ,
            Con vẫn còn thơ trẻ
            Dù vóc hạc hao mòn theo từng tia nắng xế
            Mẹ luôn là bóng cả,
                                           ân cần rợp tỏa
            Trìu mến ủ che
            Dắt dìu con lìa thoát bến mê

                                            La Thuỵ

TỈNH SAY - Thơ Tuan Nguyen và Đức Hạnh


       


                           TỈNH SAY
           Cảm tác: "Đêm Say Cùng La Thụy"
                              (Tứ đối)
          - Men cay để thấy hồn luôn tỉnh
          Chén đắng nghe chừng tóc đã say!
          - Rượu có xỉn nhưng lòng vẫn tỉnh
          Tình vừa thức để nghĩa hằng say..!
          - Phù sinh lác đác ngày ru tỉnh ,
          Cõi tạm vô cùng khắc diễn say !
          - Vũ trụ quay cuồng đời chửa tỉnh...
          Nhân trần nghiêng ngã mộng còn say...

                        Tuan Nguyen &  Đức Hạnh
                                   08.05.2017


       

Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2017

NHỚ MỘT NGƯỜI THÔI - Thơ Vĩnh Thuyên, nhạc Trần Quang Khen


     

            Thơ: Vĩnh Thuyên.
            Phổ nhạc: Trần Quang Khen.
            Ca sĩ trình bày: Lâm Trí Tú. 
            Video clip: Phú Đoàn.


    NHỚ MỘT NGƯỜI THÔI
          (Tặng Kha Tiệm Ly)

    Nhớ em muốn chết cho rồi !
    Uống say nằm ngủ,
                   thức ngồi nhớ em

    Xin gởi gió nụ hôn lên tóc
    Vì má môi là của người rồi
    Gió từ chối đông về bấc lạnh
    Chờ hạ sang lâu lắm gió ơi !

    Mấy mươi năm một lần lầm lỡ
    Lỡ một lần nghìn xót ngàn xa
    Đêm trở giấc vòng quanh phố chợ
    Chợ vắng người phố chẳng ai qua

    Nhớ em nhớ đủ trăm bề
    Bỏ đi trăm thứ muốn về thăm em

                                     Vĩnh Thuyên

 

Thứ Sáu, 21 tháng 4, 2017

CÕI TỊCH LẶNG TRONG “IM LẶNG”, THƠ XUÂN LY BĂNG - Châu Thạch


                  
                   Nhà bình thơ Châu Thạch

CÕI TỊCH LẶNG TRONG “IM LẶNG”, THƠ XUÂN LY BĂNG

                                                              Cảm nhận của Châu Thạch

Nhà thơ Hàn Mặc Tử đã được xem  là nhà thơ của đạo Thiên Chúa vì thơ ông chính là “nguồn trong trẻo vô biên” phát ra từ sự cảm xúc bởi đức tin trong tim. Nhà thơ không chủ ý sáng tác để tôn thờ Thiên Chúa hay để truyền bá Phúc âm nhưng Thiên Chúa đã chiếm ngự linh hồn ông, nên thơ ông tự nhiên đầy dẫy Thánh Linh. Tôi tìm được người thứ hai có phong cách như thế trong bài thơ “Im Lặng” của nhà thơ Xuân Ly Băng. Im lặng theo định nghĩa của từ điển là không có lời nói, không có tiếng động nào. Sự im lặng nầy chỉ xảy ra ở bên ngoài nhưng trong tâm vẫn còn xao động bởi muôn vàn hỷ nộ, ái ố của chính mình.  Im lặng theo triết lý Phật giáo là “tỉnh lặng như chánh pháp”, nghĩa là tâm thức vẫn hoạt động nhưng tự mình hướng cho tâm thức quay về nẻo thiện, tránh nỗi đau và tìm sự an lạc.
Bây giờ hãy đi vào thế giới “Im Lặng” của Xuân Ly băng:

                 Dáng ngọc lượn về trong giấc êm
                 Nhẹ tựa hoa bay chốn nguyệt thiềm
                 Đường vào im lặng mê ly quá
                 Lót toàn tơ lụa cõi thần tiên  
   

Thứ Tư, 19 tháng 4, 2017

VỊNH LẠI THƠ TIÊU TƯƠNG BÁT CẢNH - Thơ Nguyễn Khôi


          
                         Nhà thơ Nguyễn Khôi

Thân gửi : Nhà thơ La Thụy ,
 Nhã My là nữ thi sĩ  miền Nam Việt Nam, hiện định cư ở Hoa Kỳ, nàng có một series Thơ về Sông Tương... mà Nguyễn Khôi đọc như tìm thấy "Người Tình trong mộng". Sông Tương tuy ở bên Trung Hoa nhưng đã đi vào hồn thơ Hán Việt trên 1000 năm (do giao lưu văn hóa) Nhạc sĩ Văn Giảng (Huế) đã có một bài hát bất hủ về sông Tương... ở làng quê NK (Bắc Ninh )cũng có một dòng sông cổ tích: sông Tiêu Tương trước mặt chảy lặng thầm, gắn với sự tích Trương Chi- Mỵ Nương, đã được Nhạc sĩ Văn Cao sáng tác bài hát "Trương Chi" tuyệt hay... là Trai Đình Bảng/ Nguyễn Khôi nhiều lúc thơ thẩn bên dòng Tiêu Tương mộng mơ, cất lên tiếng Sáo vẩn vơ... nay là Thơ gửi tặng Nhã My / Người  tình trong mộng ở bên kia bờ Đại dương... vô vọng... xin được chia sẻ cùng các bạn thơ :
1)- Sơn thị tình lam: hơi mù sương buổi trời tạnh nơi chợ núi.
2)-Ngư thôn tịch chiếu:bóng chiều rọi thôn chài.
3)-Giang thiên mộ tuyết: tuyết chiều trên sông.
4)-Yến sự văn chung: chuông chiều ở chùa cao trong mây.
5)- Bình sa lạc nhạn:Nhạn sa bãi cát phẳng.
6)-Viễn phố quy phàm: thuyền dong buồm về bến xa.
7)-Tiêu Tương dạ vũ: nửa đêm trên sông Tiêu Tương.
8)-Động Đình thu nguyệt: trăng thu trên hồ Động Đình.

       
                      Nhà thơ Nhã My

              VỊNH LẠI THƠ TIÊU TƯƠNG BÁT CẢNH
                            (Tặng Nhã My)             

              *Người đi xa lắm
               Tôi chờ
               Tiêu Tương một dải
               bơ sờ tóc sương.
               *Người đi xa lắm
               Tôi thương
               "Tình lam / sơn thị" chợ cồn núi xa.
               *Người đi xa lắm
               Tôi ca
               "Ngư thôn tịch chiếu" chiều sa thôn chài.
               *Người đi xa lắm
                nguôi ngoai
               "Giang thiên mộ tuyết" tôi hoài hoài mong.
               *Người đi xa lắm
               Tôi trông
               "Văn chung/ yến sự" mấy tầng chuông mây.
               * Người đi xa lắm
               Tôi say
               "Bình sa lạc nhạn" cát đầy mắt chim.
               * Người đi xa lắm
               Tôi nhìn
               "Quy phàm / viễn phố" cánh buồm tít xa.
               *Người đi xa lắm
               Tôi mơ
               "Tiêu Tương dạ vũ" thẫn thờ riêng tôi.
               * Người đi xa lắm
               bên Trời
               "Động Đình thu nguyệt" trăng rơi đáy hồ.
               * Người đi xa lắm
               Tôi thơ
               "Tiêu Tương bát cảnh" ỡm ờ với ai ?
           
                          Quê Bắc Ninh 21-7-2014
                                NGUYỄN KHÔI

Thứ Tư, 12 tháng 4, 2017

NGƯỜI BẠN LẠ ĐỜI - Kha Tiệm Ly


         
                   Nhà văn Kha Tiệm Ly


NGƯỜI BẠN LẠ ĐỜI

Tôi với nó bản tính khác nhau một trời một vực, như đen với trắng. Thế mà định mệnh lại xui khiến tôi phải là bạn thân với nó suốt hơn mười năm trời, kể từ những năm đầu tiểu học, cho đến ngày ghi danh vào đại học. Bản tính khác nhau, chơi nhau là khó. Đàng nầy tôi và nó lại là đôi bạn thân suốt một thời gian dài, nghĩ cũng lạ.
Tôi thì chăm chỉ, cần mẫn; nó thì lưòi biếng, cẩu thả. Tôi thì keo kiệt, nhút nhát; nó thì rộng rãi, gan dạ. Tôi thì ưa câu mâu những chuyện nhỏ nhặt, còn nó thì không để ý những điều tiểu tiết. Nói chung, hai đứa không có cái gì hạp nhau, mà lại rất thân nhau, “biết” nhau, rõ thật lạ đời!
Tôi chưa thấy nó học bài ở nhà bao giờ. Khi thầy kêu trả bài, thì nó… mới bắt đầu học! Nhìn vẻ mặt khẩn trương của nó lúc nầy thật tội nghiệp. Nếu nó xui xẻo mà bị thầy kêu lên lần đầu tiên, thì “ăn trứng vịt” là cái chắc; nhưng nếu thầy kêu nó sau vài ba bạn thì nó đọc cũng khá xuôi tai! Dù thế nào, vẻ mặt thầy cũng tạm hài lòng với đứa học trò “siêng năng” nầy, bởi những con muỗi mà nó đập và kẹp vào tập mỗi tối, đã đủ chứng minh rằng nó đã có học bài!

Thứ Hai, 10 tháng 4, 2017

THỜI NHÀ SÀN - Thơ Chu Vương Miện


      
         Chu Vương Miện


       THỜI NHÀ SÀN
  
       sống mọi cà lơ
       du canh du cư vài năm rồi bỏ
       vào tuốt rừng sâu chặt cây vạt cỏ
       dựng túp nhà sàn ở tạm dăm năm
       có khỉ dòm nhà có chó leo thang
       trâu gõ mõ chim bắt cô trói cột
       nương bắp nương khoai ăn bằng muối hột
       hết mỡ mầu cuốn gói ra đi
       bây giờ tắm xong cùng biệt cùng ly
       duyên đã tận tình chia hai ngả
       con thuyền ra khơi chả gì non nả

       mừng cho nhau ngày hai đứa lâm hành

                              CHU VƯƠNG MIỆN

Chủ Nhật, 9 tháng 4, 2017

NÍU, BUÔNG, XẢ... - Thơ La Thụy


     
                        Tác giả La Thụy


       NÍU
       Níu mây dừng bước phiêu linh
       Níu trời hẹp bớt mông mênh tình sầu
       Níu trăng ngơ ngẩn đêm sâu
       Níu tình huyền mộng bên cầu sắc không

       BUÔNG
       Buông thân đẫm bụi ta bà
       Buông tình sóng cuộn hải hà giận yêu
       Buông hồn theo gió phong phiêu
       Trí buông xuôi nốt tàn chiều vô ngôn

       NÍU BUÔNG
       Níu, buông… mòn mỏi dặm về
       Níu: còn nuối tiếc cơn mê
       Buông sao rời rã mệt mề tình xa
       Ừ thì tin nhạn la đà
       Níu buông, buông níu… yên hà huyễn hư

       XẢ
       Xả lòng vơi nhẹ tục căn
       Suối nguồn xả gột trần tâm não phiền
       Xả tình hồn trí an nhiên
       Xả hương tục lụy xuôi miền vô ưu


                                         LA THỤY

Thứ Tư, 29 tháng 3, 2017

CÁT VÀ ĐÁ - Thơ 4 Sinh Ngữ Việt, Anh, Pháp, Tây Ban Nha của Phước Tuyền Ngô Quang Huynh



              

Bài thơ nầy dựa vào Youtube "Câu chuyện Cát và Đá" được tóm tắt như sau: Hai chàng thanh niên đi trên sa mạc, ban đầu vui vẻ trò truyện, nhưng sau đó, không biết ly do gì sinh ra cãi vã, rồi chàng A tức giận đánh chàng B... Chàng B không nói gì, vội viết ngay trên cát sự cố vừa xảy ra.
Hai chàng vẫn tiếp tục cuộc hành trình... và gặp một hồ nước, chàng B liền xuống khoát nước rửa mặt cho đỡ nóng, chẳng may trượt chân té xuống hồ sâu... Chàng A vội nhảy xuống cứu bạn mình... Sau khi lên bờ, chàng B liền lấy dao khắc trên đá hành động cứu người của bạn mình... Chàng A ngạc nhiên hỏi chàng B lý do nào khi thì viết trên cát lúc lại khắc trên đá...


                                CÁT VÀ ĐÁ
     Thơ 4 Sinh Ngữ  (Việt - Anh - Pháp -Tây Ban Nha)

     1. Cát và Đá. (Việt nam)
     2. Sand and Rock. (English)
     3. Sable et Pierre. (Français)
     4. Arena y Roca. (Español)



     CÁT VÀ ĐÁ

     Bạn đánh tôi rồi, đau đớn thay !
     Tôi ghi trên cát phút giây nầy,
     Để đừng nhớ lại hành vi ấy,
     Thời điểm đau buồn dễ vụt bay..

     Bạn giúp vài điều, tôi cũng ghi,
     Ghi giờ ghi phút bất cứ gì,
     Phen nầy tôi lại khắc trên đá
     Để nó đừng phai, gió cuốn đi..

     Bạn làm mỗi chuyện, tôi chép luôn,
     Ghi cả hân hoan lẫn khổ buồn,
     Hầu nhở nhắc tôi ngày tháng lại,
     Nhưng tùy nơi viết dễ nhìn trông.

     Lâu nay bạn đã giúp tôi nhiều,
     Thoải mái tuổi già lúc quạnh hiu.
     Trao đổi tâm tình như ruột thịt,
     Ân cần thăm hỏi sớm hay chiều.

     Chiều nay tôi định ra biển ngồi,
     Viết hết nỗi lòng trên bãi thôi.
     Để sóng dồn lên hay gió thổi,
     Những gì không đẹp cuốn nhanh trôi.

     Phước Tuyền Ngô Quang Huynh
                   (Feb. 4, 2009)

Thứ Ba, 28 tháng 3, 2017

ĐỌC “TÔI NẰM XUỐNG”, THƠ XUÂN LY BĂNG - Bình thơ của Châu Thạch


               
                           Châu Thạch

          ĐỌC “TÔI NẰM XUỐNG”, THƠ XUÂN LY BĂNG 
         
Một trăm bài thơ nói về sự chết thì một trăm bài thơ bi quan, cho dầu có bài thơ nói đến sự phiêu diêu miền cực lạc, hoà nhập với trăng sao nhưng lại xem thế gian là nơi đầy đau buồn mà mình vừa trút bỏ. Lần đầu tiên tôi đọc một bài thơ diễn tả cõi sống và cõi chết đều tràn lan niềm vui. Nhà thơ Xuân Ly Băng đã siêu thoát ngay tại thế gian nầy trong bài thơ “Tôi nằm Xuống”, một bài thơ nói về sự chết mà không có tiếng chuông báo tử, không có tiếng mõ cầu siêu, không có tiếng khóc thút thít nhưng cả thế gian có ánh sáng, có màu sắc, có âm thanh rộn ràng, tích cực và tươi thắm, khiến cho người nằm xuống như khởi hành một chuyến viễn du đầy hạnh phúc tại nơi đi và đầy nguồn vui tại nơi đến.
 Bài thơ có 13 khổ thơ, mỗi khổ đều có cụm từ “Tôi nằm xuống” ở mỗi câu đầu. Lần lượt 13 câu đầu của mỗi khổ thơ như sau:

     - Tôi nằm xuống, quả đất vẫn quay đều
     - Tôi nằm xuống, hoa vẫn nở bốn mùa
     - Tôi nằm xuống, vẫn tiếng hót chim trời
     - Tôi nằm xuống màu, biển xanh cứ xanh
     - Tôi nằm xuống Hòn bà vẫn hiên ngang
     - Tôi nằm xuống, vẫn cuồn cuộn dòng sông
     - Tôi nằm xuống, lịch sử cứ vận hành
     - Tôi nằm xuống con trẻ cư sinh ra
     - Tôi nằm xuông vẫn chảy dòng sông Dinh
     - Tôi nằm xuống vẫn uốn khúc Li Li
     - Tôi nằm xuống chuông vẫn vọng thánh đường
     - Tôi nằm xuống có ai khóc thương tôi?
     - Tôi nằm xuống cuộc đời vẫn cứ đi

Thứ Tư, 15 tháng 3, 2017

BA BÀI THƠ VUI TẶNG HAI BẠN THƠ CHU VƯƠNG MIỆN VÀ LẠI QUẢNG NAM - Nguyễn Khôi


  

Ba bài thơ vui tặng hai bạn thơ Chu Vương Miện và Lại Quảng Nam
     
     1- XUÂN HÀ NỘI
     "Khách xa gặp lúc mùa xuân chín "  
                              Thơ Hàn Mạc Tử

      Mưa phùn ướt đẫm áo em
      Môi thì nhợt nhạt, tóc mềm rủ thương
      Mịt mờ sương phủ hồ Gươm
      Chừng xa nghe vọng tiếng chuông Tây Hồ
      Nhớ xuân xưa đón Giao thừa
      Ta đi "hái lộc" bên bờ Thiền Quang
      Xuân mưa thả cái dịu dàng
      Bên nhau hơi ấm từ nàng tỏa ra
      Mưa phùn quấn quít hai ta...
                 

     2- PHÊ BÌNH CÁI ĐÈO NGANG
        "Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà"
              Thơ Bà Huyện Thanh Quan

     Một cái Đèo Ngang bao tranh cãi
     Cứ hoài hoài Quốc Quốc với Gia Gia
     Tới đây "đứng" lại hay "ngoảnh" lại ?
     Đâu "chợ" bên sông,"rợ" mấy nhà ?
     Chỉ thấy
     Núi trơ trụi, bãi sim mua cằn cỗi
     Bặt cánh chim, ầm ĩ biển vỗ bờ...
     Anh hay cãi
     Anh ăn sóng / nói gió
     Nổ "phê bình"... phải/ trái gió bay
     Ai yêu nước / ai Việt gian bán nước ?
     Hay gì cuộc Nội Chiến dằng dai ? !
     Ôi,
     đường Nam Tiến gánh gồng đi chiều dọc
     mà "phê bình" lại quay ngoắt
    Đèo Ngang !?!

                 
     3- CẢM THƠ LÊN ĐỈNH ĐÈO NGANG
           "Lòng một tấc son còn nhớ nước
            Tóc hai phần bạc vẫn thương thu"
                                    Thơ Hương Sơn

     Thực chẳng  may sinh ra là Người Việt
     ở Miền Trung nắng gió Trời đày
     Qua sông Gianh lại đến duềnh Bến Hải
     máu Việt tuôn thù hận ngút trời mây...
     Ta ở đây mơ sang Úc / Mỹ
     "Thế giới Tự do" được quyền làm Người
     được làm việc dưới Mặt trời chói lọi
     Lao động hết mình và được xả hơi...
     Ta ở đây dẫm chân tại chỗ
     lên Cao Tầng lại ngó xuống chân
     Ôi con "lộ" như đóng băng: xe cộ đứng
     lên đỉnh Đèo Ngang
     ca khúc "4000 năm
     Ta lại là Ta"
     chợt nghe tiếng Gia Gia / Quốc Quốc
     vạch Trời lên
     GÀO
     một tiếng
    Thầm !  (1)

     Hà Nội 15/3/2017
     NGUYỄN KHÔI

    ----

    (1) Đáo địa nhất vô thanh.

Thứ Ba, 14 tháng 3, 2017

TRAO ĐỔI VỚI ÔNG CHU VƯƠNG MIỆN - Lại Quảng Nam


                
                  Nhà biên khảo Lại Quảng Nam


Kính gởi  ông Chu Vương Miện
1
Trưa nay nằm đọc lại email trên laptop, tôi kinh ngạc về lời trong thư của ông. Phàm khi muốn tranh luận với ai về một đề tài gì thì nguyên tắc chung là chỉ trích xuất các từ trong văn bản đó mà thôi. Vậy mà Ông đã sai ngay từ đầu. Trước khi tôi phản hồi với ông tôi xin nhắc lại hai điều mà tôi cảm  nhận về ông.

THƯ GỬI ANH LẠI QUẢNG NAM - Phiếm đàm của Chu Vương Miện


             
                   Nhà thơ Chu Vương Miện


              THƯ GỬI ANH LẠI QUẢNG NAM
                                     

Kính Anh!

Rất hân hạnh được đọc bài viết của anh do anh Nguyễn Khôi chuyển lại, không có đầu đề, chẳng qua là nối điêu "tiếp theo bài viết của nhà thơ Quách Tấn"
Qua nội dung của bài viết của anh, chúng tôi ghi nhận được vài điều xin ghi lại để tiện trao đổi :
1- An Chi là " học giả đừờng phố ".
2- Tiến sĩ thời nhà Lê Trần Danh Án là Việt Gian.
3- Xỉ vả không thương tiếc  Ban Giáo Sư Tiến Sĩ đã biên tập và chú giải một cách nhếch nhác về bài thơ này trong Ngữ Văn lớp Bảy (7) mấy mươi năm qua.
4- Các  giáo sư ngày trước (có nghĩa là trước 1975) đã không toàn tâm toàn ý... để hầu như 99% đều đọc là "Rợ mấy nhà".
5- Ngoài ra các lớp đàn anh, họ còn dựa vào Phép Ngụy Biện "Van vái tứ phương".
Đọc xong bài viết của anh Lại Quảng Nam, tôi Chu Vương Miện rất cảm động về tấm lòng yêu nước và tha thiết với văn học Việt Nam của anh, nhưng hoàn cảnh đất nước đổi thay, sách báo miền Nam bị tịch thu và đốt hết, tất cả các tác phẩm của các tác giả miền Nam "in thành sách" đều bị liệt kê vào loại sách Phản Động "cấm lưu trữ và lưu hành". Tôi (CVM) vần C, đứng gần đầu sổ, và trên 200 văn nghệ sĩ bị đi tù, có người đã chết như thi sĩ Vũ Hoàng Chương, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn...
Nhưng bài viết của anh quá ngắn và lại "không trích dẫn "Nhà văn An Chi là Nhà Văn Đường Phố". Nhà văn đường phố là loại nhà văn gì ? Tiến sĩ Trần Danh Án là Việt Gian ? Việt Gian ở chỗ nào ? Việt Gian cho ai ?
Rồi đến các vị soạn sách Giáo Khoa, sau 1954 đến 1975 thì Nam hay Bắc cũng giống nhau, đó là thời kỳ loạn lạc, trường học, lớp học cũng lôi thôi, có nhiều miền trong "vùng giải phóng" phải học ban đêm, dưới ánh đèn dầu.
Chu Vương Miện di cư vào Nam, giữa năm 1954, nhưng đến tháng 12 năm 1955 trường Trung Học Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi mới khai giảng, lý do là trường đang xây cất bị bão làm sập, thầy hiệu trưởng là thầy Nguyễn Văn Nghi, chỉ là giám thị trường Trung Học Võ Tánh Nha Trang, chỉ có bằng Trung học rồi sửa thành bằng Tú Tài, sau một năm nội vụ bị phát giác thì bị cách chức Hiệu Trưởng nhưng lại thăng làm Quận Trưởng quận Tư Nghĩa, giáo sư Hà Như Hy (em ruột của giáo sư Hà Như Chi; anh ruột của bác sĩ Hà Thúc Như Hỷ) về làm hiệu trưởng, lúc đó trường chỉ có duy nhất giáo sư Bùi Đức Chu người Quảng Ngãi, giáo sư Bảo Phốc (người Huế)  và giáo sư Chu Duy Kham (cháu của giáo sư hiệu trưởng trường Nguyễn Hoàng tỉnh Quảng Trị là giáo sư Chu Duy Khánh) là có bằng Tú tài 2, phần còn lại toàn là Tú Tài 1 (tương đương  lớp 11 bây giờ) và các giáo viên tiểu học. mãi đến năm 1958 mới có các giáo sư tốt nghiệp Sư Phạm cấp tốc một năm về giảng dạy cho lớp Đệ Tam (đệ nhị cấp).
Xin bạn Lại Quảng Nam mở lòng từ tâm, mà chấp nhận  đất nước của chúng ta trong hoàn cảnh như thế, loạn lạc gần trọn một thế kỷ! Có chuyện cần làm ngay mà cũng có chuyện làm từ từ, chuyện người trước chưa làm xong thì để cho người đời nay làm. Trước làm sai thì sau sẽ số gắng làm cho đúng.
Theo cách bạn viết thì Học Giả An Chi "câm mồm không dám nói, không dám phản biện với bạn”, vì ngu quá ? Ban soạn sách giáo khoa toàn Tiến Sĩ cũng im luôn.
Suy nghĩ như vậy bạn tự trở thành một thứ Đông Phương Bất Bại, trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, và Độc Cô Cầu Bại trong Thần Điêu Đại Hiệp, không ai dám lên tiếng với bạn, vì họ ngu dốt qúa,hèn hạ quá! Còn những người đã qua đời như tiến sĩ Trần Danh Án và những vị soạn sách giáo khoa mà bạn chê cũng đành ngậm cười nơi chín suối!
Ý kiến của người viết bài này, rất thô lậu quê mùa, bài bạn viết hay những bài bạn đã viết, không ai dám lên tiếng ! Lý do giản đơn như sau :"là trong bài viết về Văn Học, Văn Hóa của bạn có quá nhiều Từ Ngữ "Chợ Búa Hàng Tôm, Hàng Cá & Đường Phố Bến Xe; Vỉa Hè, nên đa số dân cầm bút văn chương "trói gà không chặt" không hiểu là bạn nói cái gì ? bạn viết cái gì ? và bạn chửi cái gì ? và cũng hoàn toàn không đủ chữ nghĩa Hè Phố để bồi đáp bạn, " trao đổi với bạn ", đành chịu thua bạn.
Bạn là dân Quảng Nam, con dân của một miền đất có truyền thống cách mạng, là một nơi Địa Linh Nhân Kiệt,  nhiều Công Thần Danh Tướng, nhiều nhà Nho Lỗi lạc,  nhiều phong trào Văn Thân, Cần Vương, Duy Tân, bạn là một người có ăn học và  có học vị "Cao Học", lại là một người cầm bút nổi danh, chuyển dịch thơ Đường, các bài biên khảo giá trị. Bạn phải giữ tư cách cho bạn, Văn Chương; Văn Học đâu có phải là chỗ đầu đường hay bến xe  để cho bọn Chí Phèo Tung Hoành.
Viết đến đây có lẽ cũng cạn lời, bạn coi kẻ viết những dòng chữ tâm huyết này là thù hay bạn cũng tốt! Dù sao đi nữa thì giữa tôi và bạn cũng có môt thời coi nhau như bằng hữu.
                                                                                         Kính
                                                                               Chu Vương Miện

Thứ Hai, 13 tháng 3, 2017

AI LÀ TÁC GIẢ KỊCH THƠ BÓNG GIAI NHÂN - Hồi ký của Hoàng Cầm

ĐÍNH CHÍNH NHỮNG NHẦM LẪN TRONG VĂN HỌC
                                 Gửi Yến Lan, một nỗi nhớ, một niềm thương
                                                              Ký tên Hoàng Cầm  

              
                            Nhà thơ Hoàng Cầm


            AI LÀ TÁC GIẢ KỊCH THƠ BÓNG GIAI NHÂN  
                                                                         Hoàng Cầm

  1941 tôi đã chính thức bước vào cái “nghiệp của văn chương” được vài năm. Cuối năm ấy tôi được xem vở kịch thơ đầu tiên công diễn trên sân khấu nhà hát lớn Hà Nội, do nhà đạo diễn Chu Ngọc dàn dựng. Việc được xem một vở kịch thơ tề chỉnh trên sân khấu có chuẩn mực lần ấy với tôi là một bước ngoặc quyết định trong công việc sáng tác kịch thơ của tôi

   Vở kịch thơ ấy có tên là “Bóng giai nhân”. Trong chương trình ghi là hai tác giả Nguyễn Bính và Yến Lan. Với Nguyễn Bính tôi đã quen. Đối với các bậc đàn anh nổi tiếng, tôi coi như cây cao bóng cả. Tôi chưa gặp Yến Lan bao giờ, chỉ biết anh là một thi sĩ đáng kính nể với bài Bến My Lăng, mà anh đang sánh vai đồng hành với đại thụ như Hàn Mặc Tử, Bích Khê…nhóm thơ Bình Định nổi tiếng trong phong trào thơ mới


Thứ Bảy, 11 tháng 3, 2017

NGỒI RU VÕNG TÌNH - Bình thơ của Nguyễn Hùng Dũng




    NGỒI RU VÕNG TÌNH 

    Thôi ta phiền muộn lắm rồi
    Đừng lay ta dậy mộng đầu xa xôi
    Đừng môi đừng mắt gọi mời
    Vòng tay ngày đó rã rời nỗi đau

    Bèo mây gặp gỡ đời nhau
    Gió lên con nước trôi mau cuối trời
    Tình vui phút chốc tình rờI
    Ngỡ ngàng bao nỗi cuộc cờ thế gian

   Ta về xếp lại ngổn ngang
   Tạ ơn ai dẫu còn mang mối sầu
   Ta ngồi lặng giữa đêm thâu
   Trời không tháng bảy mưa ngâu sụt sùi

   Tạ ơn ai lần nữa thôi
   Thiên thu giọt lệ đắng môi giả từ
   Bóng ta lẫn bóng sương mù
   Cánh hoa nở muộn ngồi ru võng tình…

                                               Lara Ngo

Thứ Hai, 6 tháng 3, 2017

HỎI ANH - Thơ Nguyễn Ngọc Thìn


     

Người bạn vong niên của La Thụy, anh Nguyễn Ngọc Thìn (1940 - 1992) lãng du vào miền miên viễn đã 25 năm rồi. Tưởng nhớ đến anh, xin đăng bài thơ HỎI ANH được anh viết trong ngày Quốc Tế Phụ Nữ 8/3 năm 1988
      
       HỎI ANH

       Con ta nay đã lớn rồi 
       Cửa nhà cũng chẳng thua người bao nhiêu 
       Chừ đây em hỏi đôi điều
       Yêu con, yêu vợ hay yêu bạn bè

       Rượu chè còn nghĩa phu thê
       Có nên đi sớm về khuya không mình ?
       Bao nhiêu nắng của bình minh
       Bấy nhiêu hạnh phúc cuộc tình đôi ta 

       Anh ơi còn thấy đậm đà
       Còn vui như buổi pháo hoa em về
       Bây giờ nhiều kẻ ngủ mê
       Trong bia rượu với bạn bè hư thân 

       Vì con, em mới ân cần 
       Vì anh, em mới nghĩ gần nghĩ xa
       Nói đi anh… chuyện cửa nhà
       Tương lai : con, vợ, mẹ, cha đang chờ
       Hỏi anh, anh trả lời sao ?

                                   Nguyễn Ngọc Thìn
                                               1988

Thứ Sáu, 3 tháng 3, 2017

TÁM MƯƠI DƯ - Thơ Hoàng Hương Trang


Tên thật: Hoàng Thị Diệm Phương
Năm Sinh: 1938
Quê quán: Vân Thê - Hương Thuỷ - Thừa Thiên Huế
Tốt nghiệp cao đẳng Mỹ Thuật 1960, Sư Phạm Mỹ Thuật 1961
Nghiên cứu Mỹ Thuật Á châu (Tokyo1963)
Giải thưởng:
- Nam Phương Hoàng Hậu
- Giải hội hoạ vẽ biểu mẫu nhà máy xi măng Long Thọ Huế 1958
- Giải văn học vì trẻ thơ do hội nhs văn việt Nam tạp chí vì trẻ thơ và Uniceff tổ chức 2000 - 2001 (Hà Nội)
Cựu giáo viên các trường trung học, cựu giáo sư trường Đại học Mỹ Thuật Sài Gòn TP. HCM
Tác phẩm: 6 tập thơ từ 1964 - 2002
In chung trên 30 tuyển tập thơ văn trong và ngoài nước
Có tên trong thi nhân Việt Nam thế hệ 1954 - 1973


     TÁM MƯƠI DƯ
       (Quý tặng La Thụy)

     Ngó lên, ta thua người trăm tuổi
     Nhìn xuống, tớ hơn lũ bảy mươi.
     Mắt không mờ
     Tai không nghễnh
     Răng không rụng
     Lưng không còm
     Tự hào “tứ quý” trời cho.
     Thơ hơn chục cuốn, vạn bài
     Văn ngoài dăm quyển, ngàn trang
     Họa sáu mươi niên, dư vài trăm bức
     Nhạc điểm xuyết mấy khúc ca.
     Ngâm nga gần bảy chục năm, Tao Đàn nổi tiếng
     Hát hò chưa ca sĩ, bạn bè vẫn vỗ tay khen.
     Ghét bonsai, cây thiếu đất
     Chê chim cá, cảnh chậu lồng
     Không chơi non bộ, trò núi giả
     Chỉ thích rừng sâu biển cả
     Chỉ ngắm cá nước chim trời.
     Đoạt bảy giải thưởng suốt đời, gồm đủ Thơ Văn Nhạc Họa
     Hỏi ai kẻ bằng ta?
     Sống tám chục năm qua, hiếm khi bệnh tật.
     Tình một mối hẹn hò, trải dài ba kiếp tái sinh
     Nhà một mái đơn sơ, đi về tự do tự tại.
     Tiền không tỉ phú, nhưng “hồ hết lại có, hồ vơi lại đầy”
     Túi chưa bao giờ rỗng đáy
     Đời chẳng lên xe xuống ngựa
     Mà chân đi khắp mọi miền, Bắc Trung Nam đều bước tới.
     Tuổi tám mươi dư, không còn gì hơn ở kiếp này
     Kỳ vọng Nợ Duyên kiếp sau tròn mộng.
     Bạn bè khắp năm châu bốn biển, tính đến vạn kẻ thân quen
     Học trò trong nước ngoài nước, đếm quá ngàn, tình thân chí thiết.
     Giao lưu cuối đất cùng trời, từ Âu sang Á…
     Cũ mới mọi thời
     Hẹn ước chỉ một người, ngự trong tim vĩnh viễn.
     Đầu xuân Đinh Dậu, nghe gà gáy, gẫm lại đời mình
     Làm thơ tặng mình, mình đọc cười chơi
     Xuân sang nâng chén soi gương
     Tóc bay bạc trắng, ta rót ta say túy lúy.
     Chắp tay cám ơn Trời Phật
     Cho ta dư tuổi tám mươi
     Cúi đầu tạ ơn Tiên Tổ
     Đã ban tài nghệ vẹn toàn ngoài mơ ước.
     Kiếp này tạm mãn nguyện rồi
     Xin hẹn kiếp sau sẽ hơn thế nữa

    Đầu xuân Đinh Dậu, Sài Gòn 2017
    Mừng tuổi Đinh Sửu, 81 mùa xuân

    HOÀNG HƯƠNG TRANG
    ĐT: 0164 7588407

Thứ Tư, 1 tháng 3, 2017

QUAN HOÀI - Xuân Ly Băng, La Thụy


                

Ôi! Đêm Bê - lem rạng ngời tinh tú, các tầng trời vang vọng tiếng hoan ca. Nhưng hỡi ôi! Sao chiều Núi Sọ lại buồn đau chất ngất? Mặt đất thảm sầu run rẩy, như sụp nứt theo hố huyệt bi thương. Chúa ơi! Lòng con lịm tím “quan hoài


         
                                 Thơ: Xuân Ly Băng.
                                 Giọng ngâm: La Thụy.


                                  QUAN HOÀI

                   Đây Bê - lem nhắn về chiều Núi Sọ
                   Vươn tay dài riết chặt lấy tình thương…
                   Tình một trời bát ngát tựa thiên hương,
                   Thu gọn lại? đành thở dài bất lực!

                   Bê - lem sầu… trăng sao ngồi thổn thức
                   Ước một giờ vạn kỷ có như không!
                   Khi sương đêm run rẩy trên cánh đồng,
                   Còn nghe thấy cung buồn hoa cỏ dại…

                   Sầu Núi Sọ từ bao năm tê tái,
                   Vỡ ngọc rồi luyến tiếc bạc đầu non!
                   Ai qua đồi vào những buổi hoàng hôn
                   Nghe tiếng khóc rên từng hòn đá nhỏ!

                   Bê - lem ơi! Tím chiều lên Núi  Sọ
                   Hỏi ân tình còn chút nữa dư hương
                   Đá lạnh lùng không đáp nữa ca thương,
                   Bên sọ trắng từng chồng cao ngất nghểu!

                   Và Núi Sọ bao đêm trường hắt héo
                   Cổ quan hoài nghiêng xuống hỏi Bê - lem
                   Sáng tìm trời còn giữ nữa không em
                   Sao khuya ấy có khi nào xuất hiện?

                   Vòng trời đất đã hơn một lần biến chuyển
                   Nhạc ân tình trên tháp trắng reo cao…
                   Đêm lẫn chiều không với được vì sao
                   Đang thiêu đốt đến tận cùng thiên địa

                                                XUÂN LY BĂNG

THƠ TÌNH BÊN SÔNG: NỖI ĐAU XÉ LÒNG - La Thụy

    Hồ Quang - bạn TRUNG HỌC BÌNH TUY - đã thành người thiên cổ. Sinh thời, vào lúc cuối đời, Quang sống lang thang, cơ cực. Anh gửi tâm trạng u uất vào sáng tác thơ văn và gửi đăng trên tạp chí Văn Nghệ Bình Thuận, báo Bình Thuận với bút danh Hoài Quang. Nhân mùa Phục Sinh, La Thụy đăng lại bài mình viết về tập THƠ TÌNH BÊN SÔNG của Hoài Quang, như thắp lên nén nhang lòng tưởng niệm người bạn giang hồ hiện giờ chắc đang lãng du vào vùng trời miên viễn


              


         THƠ TÌNH BÊN SÔNG –  NỖI ĐAU XÉ LÒNG 

                    “Quân tại Tương giang đầu 

                     Thiếp tại Tương giang vĩ
                     Tương tư bất tương kiến
                     Đồng ẩm Tương giang thủy”    
                                                         
     Những câu thơ cổ chợt hiện về trong tôi – như tiếng thở dài não nuột của đôi lứa yêu nhau da diết, mà đành cách trở đôi dòng, người đầu sông kẻ cuối bãi, ngậm ngùi trông nhau luyến nhớ - khi đọc THƠ TÌNH BÊN SÔNG của Hoài Quang .
     Người xưa, dù vời vợi ngàn trùng cách biệt vẫn  được diễm phúc “đôi bêncùng đẫm lệ, hướng mặt gởi tấm lòng son sắt về nhau. Người nay, bi thiết hơn, con sông Dinh, đôi bờ hẹp nhỏ, cách nhau chỉ một chuyến đò ngang, chỉ bằng nửa tầm tay với,  thế mà "riêng ai" lại quặn lòng, đau đáu dõi trông. Ôi ! "Cái gần gụi tấc gang ấy là cái gần gụi muôn đời không hội điểm của hai con đường sắt" (Mai Thảo). Biết làm sao, khi :

                Ta đi em ở lỡ làng
                Mới hay khuya đã sang ngang cùng đò