BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 13 tháng 6, 2022

NHÀ THƠ KIỆT XUẤT NGUYỄN ĐỨC SƠN – Tâm Nhiên


Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn và tác giả Tâm Nhiên
(Từ phải sang trái)

Không biết từ đâu ta đến đây
Mang mang trời thẳm đất xanh dày
Lớn lên mang nghiệp làm thi sỹ
Sống điêu linh rồi chết đọa đày
 
Mấy câu thơ thời tuổi trẻ, lúc mới 23 tuổi ấy đã theo suốt cuộc đời Nguyễn Đức Sơn, một thi sỹ kiệt xuất trên bầu trời văn nghệ Việt Nam hiện đại.
 
Rờn lạnh, hoang vu một tâm hồn cô độc, cô liêu khốc liệt, luôn luôn ngún cháy bên trong chiều sâu linh thức, một ngọn lửa tịch mịch vô hình, thường trực đứng giữa đôi bờ sống chết, giữa đỉnh cao và hố thẳm của tồn sinh bức bách, ngay từ những ngày còn chạy lông bông, đùa rỡn cùng sóng vàng, cát trắng vu vơ dọc mấy hàng cây dương liễu xanh ngút ven bãi biển Ninh Chữ xa mù.
 
Từ đó, từ thuở nhà thơ chào đời năm 1937 ở làng quê Dư Khánh, Thanh Hải, Ninh Thuận đến nay cũng hơn 70 năm trời đằng đẵng trôi qua rồi mà ngọn lửa tịch mịch đó vẫn còn hừng hực, rực ngời như một ngọn lửa thiêng trong lòng người thi sỹ dị thường mà Rất đơn sơ:
 
Tôi chỉ có lửa
Và tịch mịch
Trong người
 
Lửa thơ, lửa mộng, lửa tình yêu, lửa nghệ thuật hay lửa sáng tạo ấy bao giờ cũng được thi sỹ đốt lên trên dặm ngàn cuộc lữ thênh thang. Năm 1956 lúc 19 tuổi, rời làng quê Dư Khánh, tạm biệt thị xã Phan Rang ra phố biển Nha Trang, theo học trường Trung học Võ Tánh một thời gian, nhà thơ thường trốn học, rong chơi lêu lổng dọc ven bờ biển, lồng lộng đầy gió nắng với những ý tưởng mông lung vời vợi. Chơi đùa chạy đuổi bắt những vệt nắng xanh vàng rơi tan trong bọt sóng bồng bềnh, lênh láng mộng rong rêu mà Hồi tưởng mơ màng:
 
Nhiều khi đợi nắng chiều tan
Tôi mông lung nghĩ theo làn mây trôi
Ngày kia nếu ở trên đời
Cha tôi không cưới mẹ tôi bây giờ
Sinh ra tôi có làm thơ
Để điêu linh vẫn như chờ riêng thôi
Những đêm sao sáng đầy trời
Bỗng nhiên tôi khóc trên đồi hư không
 
“Sinh ra tôi có làm thơ” vì không biết làm chi hơn là làm thơ, làm một cái công việc mà chỉ có những tâm hồn vô cùng nhạy cảm, thường xuyên có sự giao cảm âm thầm, thâm sâu, uyên viễn với nhật nguyệt, thiên địa càn khôn, với hồn thiên cổ xa xăm, diệu vời mới thích thú, đam mê theo công việc duy nhất của đời mình, ấy là cái việc làm thơ, làm thẩn đó thôi.
 
Nói như Tuệ Sỹ khi viết về Sơn Núi: “Sinh ra để làm thơ, đó là Định mệnh?” hay như Phạm Công Thiện, một người bạn thân thiết ngày xưa với Nguyễn Đức Sơn cũng nói: “Làm thơ là hố thẳm xoáy tròn vào cơn bão tố rùng rợn của thơ và chỉ nhìn thấy thơ trên trời, thơ ở dưới đất, thơ trong tim, thơ trong óc não, thơ trong mạch máu, thơ trong hơi thở, thơ trong đời sống, thơ trong cái chết, thơ trong hiện thể, thơ trong vô thể, thơ trong hư vô… Chỉ có thi sỹ mới sống tận bản thân mình, sống phóng tới đằng trước tất cả những khả tính sắp hiện của dân tộc mình.”
 
Đích thực Nguyễn Đức Sơn là một thi sỹ kỳ tuyệt, một nhà thơ mà hồn thơ luôn tuôn trào trong huyết quản rạt rào vô hạn. Chàng “lớn lên mang nghiệp làm thi sỹ” nên đi đứng, ngó nhìn bất cứ sự vật, trần cảnh, lạnh nóng, cao thấp, trời xanh, mây trắng, con người, con vật chi chi cũng đều thấy thơ và thơ bàng bạc, thấp thoáng, ẩn hiện, lung linh, rạo rực, xao xuyến ở trong máu, trong hồn như vậy, khiến cho ý tình rung lên bổi hổi, dâng đầy trong từng nhịp thở:

Giữa trời đất mịt mờ
Rốt ráo chỉ còn thơ
Nên ta hoài mê dại
Trăm năm bụm và rờ
 
“Rốt ráo chỉ còn thơ.” Thấy được vẻ đẹp cực kỳ của tạo vật, đất trời, đồng thời cũng ý thức tận cùng cái hư ảo, mong manh của cuộc sống, như một lần nhà thơ thổ lộ: “Một buổi chiều trốn học, lang thang trên bờ biển Nha Trang thời niên thiếu, tác giả suýt nổi cơn điên, khi trực nhận mãnh liệt cái quá ư ngắn ngủi của kiếp sống và từ đó, đâm ra khật khùng cho đến nay...” Vậy đó, ngó nhìn đâu cũng rung động, cũng thấy đẹp tuyệt vời, nhưng đẹp tựa ánh chớp, như bọt nước, sương rơi:
 
Tôi bỗng thấy mạch đời bừng chảy
Như nhựa xuân tràn lên đầu cành
Rồi tôi thấy mạch đời đang chảy
Ở trong tôi mà sao mong manh?
 
Ý thức tức thì cái mong manh, thoáng chốc của bọt nước, cái phù du, hư huyễn, vô thường của cuộc đời, cái lênh đênh, trôi dạt của thân phận kiếp người giữa cuộc phù sinh, dâu biển như thế, nhà thơ chợt thấu thị, thấy bùng vỡ ra một điều chi bất ngờ, như triết gia Nietzsche thấy:
“Thượng đế đã chết” nghĩa là không có thực: “Thượng đế, sự bất tử của linh hồn, sự cứu rỗi, cõi trên kia, đó là những ý niệm rỗng tuếch mà tôi không bao giờ bận tâm đến.” *
 
Sơn Núi cũng vậy, thấy “thượng đế đi rồi” chỉ còn đây trên mặt đất là sự có mặt đương nhiên của con người và nhà thơ tự hỏi, tự khai phá về sự hiện hữu của con người, về lẽ sống chết, về lý âm dương tự nhiên của tạo hóa…
 
Tất cả sự hiện hữu này có ý nghĩa chi không hay chẳng có nghĩa lý gì cả, hỡi trời mây vạn đại, thái cổ từ thuở hồng hoang nào lạc dấu mộng sơ nguyên giữa Đêm khơi không bờ bến?:
 
Lênh đênh thuyền dạt xa miền
Nửa đêm bừng tỉnh man thiên một trời
Trông lên thượng đế đi rồi
Hỏi mây thái cổ con người vân vi
Lối mòn cỏ mộ xanh rì
Ngoài ra kìa chẳng có gì nữa sao
Đảo buồn thổi gió lao xao
Ngàn xưa còn tiếng thì thào biển khuya
 
Biển tàn khuya gõ nhịp đi về, nhưng biết về đâu giữa khuya dài lê thê trong đêm tối đen ngòm, mịt mù, u ám của nhân loại? Vai gầy nghiêng nghiêng lệch gót chân xiêu vẹo, bước theo bóng mình, xơ xác qua vạn nhịp cầu ảo dị, suy tư. Tuổi còn thanh niên mà cứ tưởng tượng đến ngày mái đầu bạc phơ tóc trắng. Chẳng hề gì, vì đường thơ mở rộng, bồng phiêu, liều lĩnh trên cung bậc dấn thân, nhập cuộc, đôi khi cũng Thầm nghĩ giữa hiu hắt, tàn xiêu:
 
Biển hoang cồn lạnh tiếp chiều
Đá trơ với đá tôi liều với thơ
Áo quần hai bộ xác xơ
Quạnh hiu dù đến bạc phơ mái đầu
Nẻo xa chưa thấy nhiệm mầu
Chân còn bước vạn nhịp cầu suy tư
 
Suy tư, trầm tư, uyên tư là sống triết lý. Sống triết lý, nói theo Nietzsche là sống cố ý, chú tâm triệt để vào một vấn đề nào đó, như thiền sư nhiếp tâm, miên mật vào công án tử sinh của đời mình để đốn ngộ chân lý giải thoát.
 
Thiền là quán sát, quán chiếu tâm ý mình trong từng hơi thở, từng lời nói, từng hành động, từng sự việc tế nhị, thi sỹ biết tâm ý mình đang tỉnh thức hay đang mơ mộng trong giấc ngủ cô miên, biết mình đang mộng, thấy bay ra ngoài trời đất, càn khôn, vũ trụ, trùng trùng ánh phong quang tận Xứ nguyệt vàng:
 
Đêm mơ đến xứ nguyệt vàng
Vẳng xa buông lạnh mang mang tiếng thiền
Chập chờn nửa giấc cô miên
Tâm tư lay bóng con thuyền ra khơi
Trùng trùng sóng gợn luân hồi
Võng ru thuyền mộng vượt ngoài càn khôn
 
Con thuyền viễn mộng giong cánh buồm trắng mây bay qua những chiều phiêu nhiên mà thả hồn Một mình chạy chơi trên bờ biển:
 
Bóng nương bãi quạnh lướt đều
Cát in mau dấu hằn theo chân người
Giữa chiều nắng trải xa xôi
Thao thao sóng rượt hồn tôi ngút ngàn
Dặm về nguyệt tỏa mang mang
Một thân sinh tử hai hàng lệ sa
 
Rưng rưng hai hàng nước mắt, lặng u uẩn dặm về khuya khoắt ướt sương trăng. Trọn vẹn một trái tim đầy nhiệt huyết, luôn luôn mở rộng lòng ra để đón gió thanh tân từ ngàn phương lồng lộng thổi về, nhưng cũng thường sững sốt, ngạc nhiên trước sự tàn bạo, xảo trá, giả dối, lừa gạt một cách tàn nhẫn của con người, nên thi nhân, thỉnh thoảng rơi vào tâm trạng lạc lõng, bơ vơ, lạc loài, bỡ ngỡ, để rồi có đôi lúc thích Một mình giả chết trên bờ biển:
 
Nghe đời rút xuống xa xăm
Tứ chi rời rã tôi nằm im ru
Dã tràng tưởng giấc ngàn thu
Mon men vài chú đã bu quanh rồi
Phiêu phiêu mây bạc trên trời
Đưa tôi về cõi tuyệt vời mai sau
 
Màu mây bạc phất phiêu, lãng đãng, tang bồng chốn nào tuyệt vời tận cuối biển đầu sông? Sống giữa chợ đời đông đảo náo nhiệt, bắt buộc người ta phải biết suy ngẫm, trầm tư để phân biệt đúng sai, phải quấy này nọ, nhưng khi đứng trước đại dương mênh mông, rộng rãi thì điều đó không còn cần thiết nữa. Cứ thoải mái, tha hồ, vô tư với từng mạch luồng hơi thở, mở toang từng buồng tim thớ phổi ra mà thở cho thật nhẹ nhàng, sảng khoái, thẳm sâu như thi sỹ nhiều lần Một mình nằm thở đủ kiểu trên bờ biển:
 
Đầu tiên tôi thở cái phào
Bao nhiêu phiền não như trào ra theo
Nín hơi tôi thở cái phèo
Bao nhiêu mộng ảo bay vèo hư không
Sướng nên tôi thở phập phồng
Mây bay gió thổi trời hồng muôn năm
Mai sau này chỗ tôi nằm
Sao rơi lạnh lẽo âm thầm biển ru
 
Nhà văn Võ Phiến rất tâm đắc bài thơ này, còn Thiền sư Nhất Hạnh suốt bình sinh, du hóa khắp nơi trên thế giới cũng chỉ xiển dương cái sự việc thở ra, thở vào một cách vững chãi, thảnh thơi như vậy mà thôi.
 
Biển sóng ru êm ái, rào rạt như tiếng nhạc mơ hồ, xào xạc từ xa xôi đồng vọng lại, nghe dạt dào, xao động như cung đàn Mozart, Schubert, Chopin, Beethoven…Nắng chiều tà nhòa nhạt trong sóng nắng xa xăm, nhấp nhô bao mộng đời óng ánh nỗi niềm chi không thể thốt nên lời để Một mình đuổi theo mây bạc bay trên biển:
 
Biển chiều còn lại mình tôi
Đuổi theo mây bạc giữa trời bao la
Thủy triều chợt rút ra xa
Bóng thanh xuân rụng ác tà sau lưng
 
Rừng biển tà huy vi vút từng mảng khói chiều phiêu hốt. Sau lưng bỏ lại dấu thanh xuân khuất bóng, khi thi sỹ quyết định dời gót lên đường vào phố thị Sài Gòn, tiếp tục chuyện sách vở, học hành ở Đại học Văn Khoa.
 
Tưởng là mở ra một chân trời mới, một niềm hy vọng phong quang, xán lạn, nhưng bất ngờ trở chứng, tính khinh bạc, ngông cuồng bộc phát đột ngột, mới học vài ba năm chưa tốt nghiệp thì đùng một cái, chàng bỏ ngang, dang dở nửa chừng, để lạnh lùng đứng dậy, quay về thế giới độc đạo, cô liêu của riêng mình.
 
Tịch nhiên trầm lặng đối mặt với nỗi cô đơn rờn lạnh, quạnh hiu với nỗi sầu vạn đại như thi sỹ Huy Cận: “Một chiếc linh hồn nhỏ. Mang mang thiên cổ sầu.” Sầu thiên cổ mang mang, quằn quại, nhói buốt, thi sỹ lao mình vào cuộc sống với niềm chi lẫm liệt, bi tráng.
 
Dang tay ôm lấy cuộc đời, giáp mặt cuộc sống đang diễn ra trước mắt sờ sờ, ngay trong từng hơi thở ra vào, sinh động hằng ngày đây thôi. Cuộc sống thực tế, thực tại hiện tiền ngay đây, trên mặt đất này là đã đủ đầy hoan lạc, vô cùng hạnh phúc rồi, đừng có vọng tưởng theo Một tâm ảo tượng cũng đừng mong cầu một thế giới nào khác ở đâu đó trên trời với cảnh thiên đàng, cực lạc xa xôi:
 
Xe chênh bánh giữa luân hồi
Ưu bi chở ngập bên trời bao la
Ngày chưa sụp bóng ta bà
Đã nghe chừng hội Long Hoa đến rồi
Một ngài Di Lặc xa xôi
Một tâm ảo tượng tôi ngồi thâu đêm
 
Với thi nhân, sống thì phải sống mãnh liệt, dốc hết sức bình sinh ra mà sống một lần rốt ráo, thấu triệt thiên thu, siêu thần bạt thánh. Cho nên hãy vận dụng thập thành công lực, đứng bật dậy, nhảy múa, hát ca sôi nổi, nhập cuộc tuôn trào lai láng theo mạch đời trôi chảy, đầy mới lạ, mới mẻ, đầy đam mê theo Mộng vô biên xuất thần, say sưa, ngây ngất:
 
Hãy đốt đuốc hằng đêm trên trái đất
Cho núi rừng và biển thẳm lung linh
Các em làm sáng rực cả vô minh
Để anh có một nguồn vui bất tuyệt
 
Hãy đọc kỹ hồn anh trong bóng nguyệt
Các em vừa mười bốn với mười lăm
Bài học gần nhưng cũng rất xa xăm
Các em hãy bắt đầu yêu bụi cát
 
Bởi trái đất là niềm kiêu hãnh nhất
Dù xe đời lăn hố thẳm ngửa nghiêng
Đã chết rồi bao ngưỡng vọng thiêng liêng
Dù khuya vắng trời muôn sao lấp lánh
 
Chúng đã dựng lên bao nhiêu thần thánh
Ung thúi rồi dưỡng chất của chiêm bao
Đêm mới về niềm hoan lạc xôn xao
Ta đốt đuốc chạy dài trên trái đất
 
Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất là bước đi muôn chiều tiêu dao của thi sỹ thiên tài Phạm Công Thiện, còn Nguyễn Đức Sơn, nhà thơ xuất chúng thì đốt đuốc lên chạy dài trên trái đất thênh thang. Đi nghêu ngao hay chạy rộn ràng cũng cùng một thể điệu phiêu nhiên, chuếnh choáng, hân hoan tiếp diễn lồng lộng, bồng bềnh Trên bờ hư không theo cánh gió ngàn xuân:
 
Một đêm sao ở trên rừng
Đua nhau rụng xuống chào mừng nhân gian
Hồn tôi cây cối liên hoan
Rưng rưng tôi thấy trăm ngàn ước mơ
Tuổi vàng suối mộng trời thơ
Lớn lên tôi chết trên bờ hư không
 
Sống rạt rào, hào hứng cho đã cái đời chơi ngông, nghệ sỹ rồi bất thình lình, nỗi chết hiện về ám ảnh khôn nguôi, khiến chàng im lặng, chẳng biết làm sao hơn là ngắm nước chảy mây trôi, trước niềm đau chợt xảy đến bất ngờ. Chỉ cần chứng kiến sự luân lưu trôi chảy là đủ rồi, biết thưởng thức vẻ đẹp luôn luôn thay đổi, bởi muôn đời sự đổi thay, biến chuyển là chân lý hiển nhiên như Mây bạc trên đồi:
 
Phiêu phiêu mây bạc trên đồi
Giấc thiên thu đã đến rồi đó em
Trông lên trời rộng não phiền
Trăm năm trút lạnh xuống miền khói sương
 
Ý thức trực tiếp được điều đơn giản đó, thi nhân chấp nhận niềm đau và can đảm, lẫm liệt thổi bừng lên ngọn lửa tim hồn đốt cháy, thiêu rụi cả thành vách bịt bùng, khủng khiếp của hư vô để hiển lộ ra cái tinh túy, tinh hoa. Ngay trong sự đổ vỡ, dở dang, vẫn còn đó vầng trăng bát ngát, vầng trăng tâm linh xanh biếc thiên thu, là nguồn cảm hứng sáng tạo, vô cùng đắm đuối của bậc tài hoa Thi sỹ:
 
Khi ý thức mặt đất này dang dở
Ta vội chìm trong bóng nguyệt mang mang
Khi chấp nhận một ngàn lần đổ vỡ
Ta một hồn đắm đuối giữa tan hoang
 
Phản kháng, nổi loạn muốn chuyển hóa là cá tính vốn có sẵn trong dòng máu nhiệt liệt của nhà thơ, luôn luôn tìm tòi mới lạ, khát khao tuyệt đối, khao khát tự do từ thời còn nhỏ tuổi.
 
Các vấn đề hiện sinh, tình yêu, tính dục là những vấn đề cháy bỏng, nóng hổi mà tuổi trẻ rất băn khoăn, thắc mắc và nhà thơ trải lòng ra mà chia sẻ một cách tâm huyết rằng, các em hãy mạnh mẽ, hùng tráng, mỉm cười đứng lên, tự nhận trách nhiệm với chính mình, mãnh liệt hiên ngang sống tự do, tự giải thoát mình ra khỏi những bóng ma thượng đế, thánh thần vớ vẩn đang trú ẩn đâu đó ở trên cao vô tăm tích kia:
 
Có bay cao chín tầng trời
Chỉ nghe thượng đế ngàn đời nín thinh
Có dòm sâu tận cửa mình
Cũng không thấy được cái hình thế gian
 
Tư tưởng Nguyễn Đức Sơn tương ứng với tư tưởng đạo sư Krishnamurti: “Không có Thượng đế tối cao nào khác hơn con người chí thiện. Không có một thánh thần, Phật Chúa nào ở ngoài sai khiến được con người. Tuyệt nhiên không có thiên đàng, địa ngục nào khác hơn những cái do chính con người tạo ra. Cho nên con người chỉ có trách nhiệm đối với mình, chứ  không nên sợ hãi, nô lệ, phụ thuộc vào bất kỳ một kẻ nào khác, một thần uy nào khác cả.” ** 
 
Vâng, đúng là như vậy! Hãy kiêu hùng, dũng khí lao đầu vào con đường không lộ, vô mục đích với tư thế tự tin tự lực, vững mạnh, vững vàng, tràn đầy Khát vọng thênh thang:
 
Các anh hãy đi tuần quanh trái đất
Ôi tuổi vàng mười sáu với mười lăm
Phải hoàn thành sứ mạng một trăm năm
Trước khi biến tan vào trong bụi cát
 
Nắm tay cất đại đồng ca bát ngát
Ở trên đầu thần thánh với âm binh
Mấy ngàn năm nguồn cội của điêu linh
Chúng lảm nhảm an toàn sau bí tích
 
Kiêu dũng nhất là con đường không đích
Ta cắm đầu lao thẳng tới hư vô
Ôi mộng đời cháy sém cỏ cây khô
Trăng thế kỷ rừng Đông phương tỏa chiếu
 
Chịu chơi nhất là kẻ lên đường không mục đích, không hy vọng, chẳng mong cầu điều chi cả mà quăng ném trọn hồn mình vào cái thực tại đang là. Trên tinh thần đó, chàng bước đi xuôi ngược suốt muôn chiều phiêu bạt, phiêu lưu, lang thang khắp vùng Phan Rang, Nha Trang, Đơn Dương, Đà Lạt, lưu linh lạc địa xuống miền Bảo Lộc, Đồng Nai, Bình Dương rồi tấp về Biên Hòa, Thủ Đức, Sài Gòn rộn ràng, cát bụi rơi tơi tả…
 
Nhà thơ nhào lộn vào cuộc tồn sinh, giáp mặt trăm bề nghìn phía, từng băng qua lội nát mọi chân trời triết lý Đông Tây kim cổ, ngưỡng mộ triết gia Héraclite, tôn sùng văn hào Dostoevsky và nhất là rất thích ưa thưởng thức những hương ngàn cỏ nội, kỳ hoa dị thảo của thục nữ mười phương như có lần thi sỹ bày tỏ rõ ràng:
 
“Ngưỡng mộ Héraclite, Dostoevsky và Simone Weil. Yêu chim chóc và cỏ cây một cách lạ lùng nhưng cũng quá cần ngửi mùi quần áo lót của đàn bà và con gái, cần khẩn thiết và triền miên cho tới ngày chui xuống lỗ…”
 
Chao ơi! Mới nghe nhà thơ nói thật lòng, thật dạ, một cách thiệt tình không giấu giếm như thế, khiến ai cũng phải bật cười thú vị. Vì dường như, hầu hết thiên hạ, người đời trên cõi ta bà, tục lụy này đều thích làm chuyện ấy mà chẳng dám nói ra đó thôi.
 
Họ mắc cỡ, cố làm ra vẻ đạo mạo, nghiêm trang, điệu bộ mẫu mực, chững chạc, đàng hoàng, nhưng bên trong lòng dạ thì bị ức chế điều đó lắm, vẫn ham muốn, thèm khát âm thầm.
 
Nhằm khai mở những ức chế không đáng có đó, thi nhân vén lên tấm màn che đậy để hiện bày ra sự thật trần truồng, qua cách nhìn nghệ thuật mỹ cảm, tinh tế, bằng sự rung động cảm khoái, rất mực rộn rã tiếng cười Bất ngờ khi lần đầu tiên thấy người con gái đi đái:
 
Trên rừng ấy một mình anh hái trái
Đang mơ màng trông thấy quá nhiều chim
Bên mương vắng em vén quần sắp đái
Anh thấy càn khôn rụng xuống trong tim

Anh thấy càn khôn vũ trụ rụng xuống trong tim giữa Một đêm vàng mang mang rúng động:
 
Không biết trong mơ em còn mắc cỡ
Một đêm vàng rúng động giấc thanh tân
Dưới chăn chiếu thiên nhai lồ lộ mở
Em đái dầm ướt sẫm cả trần gian
 
Cả trần gian ướt sẫm bởi trận mưa nước đái dầm dề, chan chứa tuôn trào, khiến cho chàng thi sỹ Đại ngộ, bừng sáng một điều chi khi vụt thấy:
 
Giữa khuya đó em bàng hoàng tỉnh dậy
Cả mặt hồ tràn ngập ánh sao băng
Khắp trong người em máu nóng đang căng
Xao xuyến quá em tuột quần xuống đái
 
Chứng kiến cảnh một người con gái đi đái, được nhìn thấy, trông thấy, ngó thấy tận mắt như vậy, thi nhân rất nhạy cảm, nhận biết một cái chi đó mà chàng gọi là Niết bàn:
 
Anh kỳ vọng ngày kia anh chứng ngộ
Đang cởi quần hai mắt lệ rưng rưng
Ôi quá biết tử sinh đều thống khổ
Ở trên giường em cũng nẩy tưng tưng
 
Đấy là giây phút giao hội của âm dương hòa điệu theo vũ khúc tình thi nhiên truyền âm nhập mật, tuyệt dứt ngôn ngữ, chỉ còn Bắt đầu thở:
 
Bắt đầu thở là bắt đầu hạnh phúc
Không bao giờ anh nói dối em đâu
Ôi bất động ngàn năm thân gỗ mục
Cửa tồn sinh em hãy mở cho lâu
 
Tất cả chúng ta ra đời được là nhờ cửa tồn sinh kỳ diệu đó, cái cửa mình của người phụ nữ mà Mật tông Tây Tạng ví như đóa hoa sen thơm ngát, mọc lên từ đáy ao hồ đầy bùn lầy, nhầy nhụa, làm tỏa hương thanh khiết cho đất trời.
 
Bất cứ bậc hoàng đế, giáo chủ, thượng sỹ, vĩ nhân nào trên mặt đất trần trụi này thì cũng đều khai sinh ra từ cái nụ liên hoa, lá hoa cồn mầu nhiệm đó mà thôi. Ơi hương đời luôn luôn mới lạ nhiệm mầu ấy, thi nhân tha hồ thưởng thức, rực nồng hơi ấm âm dương bay phưỡng phất, đậm đà, hòa quyện giữa nhật nguyệt, phập phồng, hoan lạc ngát lâng lâng:

Đây lứa cỏ của mùa trăng thứ nhất
Đưa anh vào trong cõi mộng xa xăm
Giọt tinh huyết ngàn năm sau chưa mất
Rừng đông phương mù mịt dấu em nằm
 
Có một đêm tôi ở truồng dưới nguyệt
Tắm huy hoàng trong ánh sáng lung linh
Ôi thân thể những đêm vàng bất tuyệt
Tôi hiểu rồi ý nghĩa của vô minh
 
Thở hổn hển là bắt đầu sướng nhất
Cỏ cây nằm im bẹp giữa hôn mê
Giường tre cũng rung rinh như trái đất
Nên suốt đời tôi thích ở nhà quê 
 
Thà ở nhà quê, thà làm thằng chăn trâu mộc mạc hoang dã, sống thiệt tình với chính bản chất của mình như Alexis Zorba, tha hồ nhảy múa, đùa chơi cùng toàn thể mộng đời với xiết bao cô em mọi nhỏ, thẹn thò thôn nữ bờ mương, xiết bao hồng nhan, thục nữ yểu điệu tuyệt trần, diễm huyền tiên nữ, thiên hương quốc sắc giai nhân, thuyền quyên tuyệt mỹ, nhu mì… Rồi đôi khi rảnh rỗi, ngồi ngẫm nghĩ Cái lỗ của người con gái mà hứng khởi trầm trồ:
 
Cái lỗ
Nghĩ tới cùng
Sao quá ngộ
 
Ồ thì ra, thì ra chính cái đó là mối giềng mở ra cả miên trường, vạn đại cõi dục giới, trùng trùng sinh diệt mãi mãi Hai đầu sinh tử:
 
Cái lỗ của em
Cùng với cái lỗ huyệt
Mở ra hai đầu sinh tử bất tuyệt
 
Biết quán chiếu về cái lỗ tối linh, có từ thượng cổ ấy cùng với cái lỗ huyệt, tức là quán chiếu triệt để vấn đề sinh tử trọng đại, còn hơn là chễm chệ, phì nộm, nặng nề ngồi bệ vệ trên ghế nệm sa lông, trong tường cao cổng kín phòng máy lạnh, bày đặt huênh hoang, hội thảo quốc gia này đến hội thảo quốc tế nọ để luận bàn về chiến tranh hay hòa bình, tình yêu hay tính dục, duy tâm hay duy vật, Phật hay Chúa, tà hay chánh, thánh hay phàm, thiện hay ác, hữu hay vô…bất tận không ngừng:
 
Luận về không hay có
Đâu bằng nhìn cái mồng của em
Sắp ló
 
Cái mồng là ẩn ngữ gay cấn, ly kỳ, lung linh, chập chờn không rõ hình dạng, thoáng ẩn thoáng hiện, trong cách sử dụng tài tình, nghệ thuật ngôn ngữ của thi sỹ. Tuy nhiên, có lúc cũng cần chỉ rõ trực tiếp ngay vào chỗ đó để gợi hình, gợi cảm. Cho nên nhà thơ cứ hồn nhiên nói thẳng một cách gây ấn tượng, chẳng hề e dè, e ngại:
 
Cái lồn
Chúa ồn
 
Khiến cho Càn khôn nín thở:
 
Hột
Thì le
 
Ồ ồ, độc nhất vô nhị, chỉ duy nhất một cái đó thôi mà toàn thể nhân loại, từ cổ chí kim đều chìm đắm, đam mê đến độ túy sinh mộng tử. Bao nhiêu triều đại hưng phế, bao nhiêu công hầu khanh tướng, xương chất thành núi, máu chảy thành sông, ướt đẫm dòng dòng sử lịch cũng vì muốn chiếm hữu, giành giật, hưởng thụ, thỏa mãn cái đó mà thôi, Để ta nói:
 
Các em
Đều sắp có chửa
Vậy thôi chớ còn gì nữa
 
Đừng đụng em
Em đẻ
 
Banh lông
Có bơm mới phồng
Em không chồng
Sao có chửa?
 
Có chửa hay có bầu là sắp làm mẹ, làm mẫu thân, nghĩa là sinh ra bát ngát càn khôn phải không? Rồi biết bao đạo lý, triết lý, thi ca, nghệ thuật cũng phát nguồn cảm hứng từ cái đó mà ra.
 
Thật vậy, nhìn từ một bình diện khác thì cái đó là linh vật, vật thiêng, là thần Vệ Nữ như người dân Ấn Độ thờ phượng trong các đền điện tôn nghiêm hay ở thánh địa Mỹ Sơn, Việt Nam cũng thờ linh vật Linga ấy. Có lẽ xưa nay chưa từng có ai trên thế giới phát hiện ra một chân lý đơn sơ, giản dị mà khổng lồ như Sơn Núi đã phát hiện độc đáo Vậy thôi chứ còn đòi cái gì nữa:
 
Mộ
Một nấm
Hai núm
 
Chỉ cần sáu từ ngắn gọn thôi, thi nhân đã lột tả toàn diện, nói lên được toàn thể sự sống và sự chết muôn đời của kiếp nhân sinh trên quả địa cầu tròn đang quay lông lốc giữa không gian. Càng thượng thừa hơn nữa, ngay trong những thứ dơ bẩn nhất, nhà thơ vẫn thấy tuyệt vời nhất bằng con mắt Bát nhã:
 
Một sớm sương mờ giăng núi sông
Ghé thăm tình cũ cảm mênh mông
Cầu tiêu em ỉa quên chưa dội
Bãi cứt nhìn qua hiện đóa hồng
 
Nhờ bùn lầy dơ bẩn mới có hoa sen, nhờ bãi cứt hôi thúi mới có đóa hồng. Đó là lý Bất nhị của Thiền tông. Cho nên chúng ta không ngạc nhiên, khi có người hỏi Thiền sư: “Phật là gì?” Thiền sư đáp: “Que cứt khô.”
 
Chàng thi sỹ xuất hiện trên diễn đàn văn nghệ như một hiện tượng lạ, một quái kiệt thiên lôi sấm sét, có cách ăn nói lạ lùng bộc trực, khinh bạc khác thường, bàng bạc ngát hương tình tính dục, rung động, hòa âm đậm đà chất lửa Linga cháy nồng nàn hơi ấm âm dương.
 
Bằng cái giọng ngang tàng quyết liệt, gây ấn tượng nổi bật vì chuyên gây hấn, tấn công những bọn côn đồ khát máu, bọn người ngợm đội lốt tôn giáo, văn nghệ để làm những chuyện xằng bậy, gian trá quỷ quyệt.
 
Lợi dụng rủ rê mê tín, bắt người ta thờ lạy đấng thượng đế tối cao, bậc thần thánh tối hậu ở đâu đâu mù mịt, xa lắc tận trên chín tầng trời, gieo rắc bao nhiêu nỗi sợ hãi cho rất nhiều người nhẹ dạ. Làm gì có những cảnh giới thiên đường, tây phương cực lạc ở trên đó. Có lần bất nhẫn điên tiết, chàng nói thẳng một lời:
 
Tôi định một ngày nào thật thảnh thơi
Leo lên trời
Ỉa
 
Chán ngấy, muốn lộn mửa cái cảnh ngoài miệng thì nói bô bô đủ thứ chuyện thiện lành, thánh thiện, bác ái, vị tha, lương tâm, đạo đức, nhưng bên trong tâm địa thì hắc ám, đầy hiểm ác, gian manh kiểu Hoạn Thư: “Mặt ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao.”
 
Ngao ngán loại người ngụy quân tử như Nhạc Bất Quần nói một đường làm một ngã, đeo mặt nạ giả danh pháp sư, nhà truyền giáo, chuyên môn lừa đảo tinh vi, quỷ quái vẫn còn hoạt động rộn ràng, phát huy môn phái, mở rộng nhà ma cửa quỷ, hoằng dương tà đạo loạn xà ngầu, bát nháo, lao xao quá sá, nên xin
 
Thưa với các đấng giáo chủ kim cổ:
 
Dù đạo của các ngươi
Thành hay không thành
Cỏ mộ
Vẫn cứ xanh
 
Người ta giấu cái đạo
Trong hũ gạo
Trời ơi!
 
Đó là một sự thật cay đắng, bất đắc dĩ thi sỹ phải nói ra, khiến cho bọn đạo đức giả tức hộc máu, không biết làm chi hơn, gán ghép chàng là kẻ phá hoại, báng bổ thần thánh, tên du côn hoang đàng, ngạo mạn, đồ man di mọi rợ, điên khùng…
 
Chúng không biết rằng, trong thơ văn chàng trái lại, chứa chan tràn đầy tính chất trữ tình lãng mạn, ăm ắp niềm yêu mến thiên nhiên, yêu thương nhân loại, mở ra bầu không khí trong lành, khoáng đãng, tự do hít thở, bằng cái giọng rất tân kỳ, mới lạ quá đỗi đặc biệt, quyến rũ một cách bất ngờ.
 
Cái giọng thơ phiêu bồng, độc đáo xưa nay chưa từng thấy. Thơ văn chàng bắt đầu đăng tải nhiều trên các tạp chí Khởi Hành, Bách Khoa, Sáng Tạo, Thời Tập, Thời Nay, Trình Bày, Đối Diện, Mai, Văn, Văn Nghệ, Thế Kỷ Hai Mươi
 
Thời kỳ đó là vào khoảng năm 1960 đến 1975, sinh hoạt văn nghệ Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, lúc bấy giờ đang chuyển mình thăng hoa, phát triển rầm rộ về mọi mặt. Hàng ngàn tác phẩm thơ văn, nhạc họa, dịch thuật đủ thể loại kim cổ Đông Tây thi nhau xuất bản, ấn hành mạnh mẽ.
 
Năm 1965 Tạp chí sáng tác văn nghệ Mặt Đất, do Nguyễn Đức Sơn chủ trương ra đời, mang đến một luồng gió mới lạ thổi qua mặt đất. Gây nên một trận bão hào hứng, bừng dậy xôn xao trong giới văn nghệ sỹ, nhưng rất tiếc, chỉ ấn hành được dăm bảy số rồi nghỉ vì nhiều lý do ngoài ý muốn.
 
Buồn bã không còn đất dụng võ, tung hoành ngang dọc trên mặt trận văn chương nữa, thi sỹ buông mình xuống dòng đời trôi lênh đênh như nhánh rong phiêu bạt qua những gập ghềnh suối thác, miên man sáng tạo trong cô đơn cố hữu, thầm thì giữa thiên địa Mang mang:
 
Mang mang trời đất tôi đi
Rừng im suối lạnh thiếu gì tịch liêu
Tôi về lắng cả buổi chiều
Nghe chim ăn trái rụng đều như kinh
Còn một mình hỏi một mình
Có chăng hồn với dáng hình là hai
Từng trưa nằm nghĩ đất dài
Phiêu phiêu nhẹ cái hình hài bay lên
Mù sương âm vọng tiếng huyền
Có con dơi lạ bay trên cõi đời
Sau xưa mắt đã ngợp rồi
Tôi nghe tôi chết giữa trời thinh không
 
Sống và chết cùng song hành, bước đi chênh vênh bên vực thẳm tồn sinh. Thấm thía rợn cả người trước sự tàn bạo, vô nhân đạo của cuộc chiến tranh tương tàn tương sát, đang diễn ra khốc liệt trên khắp xứ sở Việt Nam, nhà thơ tìm đủ mọi cách để không bị nhà cầm quyền bắt đi lính ra chiến trường, bắn giết dã man, nên thường tá túc trong các chùa chiền, liêu vắng hay các xóm nhà lá tồi tàn, xơ xác…
 
Hát khúc giang hồ ca bạt mạng, lên rừng xuống biển, ngược xuôi trăm miền rồi Cát bụi mệt mỏi tấp về Bình Dương, dạy học tiếng Anh ở mấy trường tư thục Bồ Đề, từ năm 1965 đến 1967.
 
Thời gian ở đây, bất ngờ kỳ ngộ Nguyễn Thị Phượng trong chùa Tây Tạng, một nàng thơ diễm tuyệt, khiến cho chàng thi sỹ rúng động cả thần hồn, rồi xuất cốt thành tác phẩm Đêm nguyệt động đầy chất thơ mộng, gồm 17 bài thơ trữ tình, mỹ lệ để đánh dấu năm 17 tuổi của người tình vĩnh cửu, yểu điệu dáng thơ gầy, thục nữ đoan trang:
 
Năm mười sáu em bắt đầu thấy rát
Khắp trong người rờn rợn máu đang căng
Hồn hoa đã động tình đêm thứ nhất
Em đến nằm phơi mộng giữa vườn trăng…
 
Anh quỳ xuống dưới vòm trời khao khát
Dù thật lòng em chưa muốn cho xem
Đời anh đó đâu lớn bằng hạt cát
Đã vô tình vương dưới gót chân em
 
Em về em hiện, em đến như tiếng sét ái tình làm bùng vỡ tâm thức, rực ngời lửa âm dương cháy đỏ. Cho nên đám cưới được tổ chức tức thì ở ngay trong chùa Tây Tạng, lúc chàng vừa đúng 30 tuổi. Buổi tiệc chay đám cưới đó, có Phạm Công Thiện, khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, nhà văn Bửu Ý, nhà thơ Nguyễn Miên Thảo và Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm tham dự.
 
Từ đó đến nay Sơn Núi vẫn tiếp tục ăn chay trường vì một lý do dễ hiểu là thương yêu những con chim, con cá, những con gà, con vịt, con hươu, con nai, con dê, con khỉ, con heo, con chó, con bò, con trâu…Không nỡ lòng nào ăn tươi nuốt sống, cắt cổ mổ bụng, uống máu các loài động vật rất thân thiết, gần gũi ấy được.
 
Thương yêu đến độ như thế là nhân đạo vô cùng, vô tận rồi, yêu thương từng con cò, con hạc, con ngỗng… huống chi là con người phải không? Không thể nào không rùng mình ớn lạnh, tê buốt cả thịt da, khi đi ngang qua những đường phố ồn ào, náo nhiệt, tràn ngập quán nhậu vỉa hè, thấy nam nữ già trẻ bu quanh lò sát sinh ăn nuốt, nhai nghiến ngấu ruột gan phèo phổi mà chạnh xót xa đau:
 
Những quán nhậu
Cứ bu quanh lò sát sinh
Thừa hưởng ruột gan phèo phổi
Đâu đến nỗi
Của mình
 
Tình cảm tự nhiên, tính thuần thiện, thiên lương rất đỗi từ ái, lân mẫn của thi nhân là vậy. Cuộc lữ Du sỹ ca qua mọi chốn miền duyên hải, ngút ngàn biển xanh cát trắng, rồi tưng bừng lên rừng cao rú thẳm xa xăm, có lúc sung sướng, thăng hoa phấn chấn ngất trời, rồi nhiều lúc cũng bầm dập tiêu điều, điêu đứng những nẻo đời gian nan, bão bùng lốc xoáy lăn quay.
 
Xoay xuở đủ đường, trước bao nhiêu chuyện đa đoan, thúc bách trăm chiều, tự đẩy mình vào những chốn khốn cùng, túng quẩn nhất. Có lần xui xẻo, bị bắt giam vào nhà lao vì trốn quân dịch, không chịu đi lính ra chiến trường, cầm súng bắn giết đồng loại.
 
Nằm co ro, tê tái trong trại giam chật chội, ngột ngạt giữa trưa nồng oi bức, bưng chén cơm tù lên, thi nhân vẫn trân trọng sự sống với Chút lời thở than, cảm tạ đất trời vô lượng bao dung:
 
Mỗi ngày cúi xuống hạt cơm
Anh nghe thấm một mùi thơm lạ lùng
Cắn đôi hạt muối thường dùng
Biết ơn trời đất vô cùng em ơi!
Trăm năm ta sống một đời
Ngàn năm gởi lại chút lời thở than
 
Ai đã từng lâm vào cái cảnh tù ngục, đọa đày thì mới thấy thật là kinh rợn, khủng khiếp như thân thể bị ghẻ lở tróc da đầy mình, bệnh tật, bệnh hoạn không thuốc thang. Nằm bầm dập, não nề thê thảm, chẳng có một người nào chăm sóc thì bất cứ ai ai cũng cảm thấy xót thân tủi phận, căm hờn phẫn nộ bọn cầm quyền độc tài, tàn bạo…
 
Thế nhưng ở đây, thái độ ứng xử lại trái ngược hoàn toàn, chàng thi sỹ bị đọa đày, nhốt trong tù như thế mà không oán giận, vẫn điềm nhiên bày tỏ những lời tri ân chân thành, cảm ơn tật bệnh ghẻ lở, cảm tạ sự tăm tối vô minh, Cảm ơn tù:
 
Cảm ơn ghẻ mọc đầy mình
Cảm ơn bệnh hoạn chung tình với ta
Cám ơn dái tróc lòi da
Cảm ơn tù dẫn tôi ra khỏi đời
Cảm ơn tất cả xa rồi
Hôm nay tôi thấy tôi ngồi bên tôi
 
Cảm tạ tất cả sự nghiệt ngã của cuộc đời vì nhờ đó mà nhà thơ mới có cơ hội đối mặt với bản thân, thấy lại cái mặt mũi xưa nay của chính mình. Ơi chao! Thật là một cái nhìn sáng tạo tân kỳ, chỉ có những tâm hồn thượng đẳng, hoằng đại mới thấy được như thế.
 
Biểu lộ một cái thấy siêu việt, phi thường, ngay cả trong ngục tù tối tăm đi chăng nữa, họ cũng chuyển thành một dịp may hy hữu, vẫn thấy xiết bao nguồn cảm hứng sáng tạo, như thi hào Rainer Maria Rilke phát biểu:
 
“Nếu đời sống thường nhật trở nên nhạt nhẽo, nghèo nàn đối với mi thì mi đừng bao giờ oán trách nó. Mi hãy tự trách chính mi rằng, mi không đủ tâm hồn thi nhân để mà có thể gợi dậy trong lòng mình, tất cả sự phong phú, miên man của đời sống thường nhật.
 
Vì đối với một con người sáng tạo thì chẳng có gì nhạt nhẽo, nghèo nàn, chẳng có một nơi chốn nào là khô khan, lãnh đạm, dù ngay lúc mi đang ở trong nhà tù đi nữa, giữa những vách tường bưng bít, không có lọt vào một chút ánh sáng hay những tiếng động của thế gian.
 
Phải chăng, ngay lúc đó, trong lòng mi vẫn luôn luôn còn lại tuổi thơ, kho tàng quý báu, chứa chất bao nhiêu kỷ niệm tuyệt vời? Hãy hướng tất cả tâm tư mi vào đó…Dọ dẫm tận đáy lòng sâu thẳm mà từ đó, đời sống mi đã phát nguồn, luân lưu trôi chảy…
 
Bởi vì, một thi sỹ sáng tạo, bao giờ cũng có một vũ trụ cho riêng mình, phải tìm tất cả mọi sự ngay trong tâm hồn bao la, sâu thẳm của chính mình đây thôi.” ***
 
Ngồi trong song cửa sắt, nhà thơ gởi hồn về chốn miền viễn mộng Bình Dương, nơi có người yêu dấu đang chờ đợi buồn tênh, nên mần thơ Nằm mộng trong tù:
 
Bên trong khung cửa sắt này
Anh ngồi đếm lại từng ngày xót xa
Đêm qua mơ trốn về nhà
Ôm em ngủ suốt canh tà với trăng
 
Và lặng lẽ sầu nhớ thương bà con Chòm xóm cũ:
 
Có ai về được Bình Dương
Hỏi thăm chòm xóm có thường hay không?
Đêm đêm bom tưới đầy đồng
Những oan hồn cũ bế bồng đi đâu?
 
Sầu áo não, nghe se sắt lạnh máu tim hồng. Sống trong xã hội thời loạn ly, bị vây khổn, ngột ngạt đầy âu lo khó thở, nhà thơ mơ ước ngày mai kia, tất cả nhà tù ngục, trại giam nhốt con người đều bị chôn vùi dưới mộ địa, không còn tồn tại trên mặt đất thân yêu này nữa mà chỉ còn tình người chia sẻ hòa hài:
 
Mai kia dù chế độ nào
Một trăm một triệu phong trào đi qua
Làm sao tất cả chúng ta
Chỉ còn trông thấy mồ ma nhà tù
Nằm trên trái đất vi vu
Bao la trời biển tiếp thu tình người
 
Tắm mình trong mưa nắng đẫm ướt phong trần. Sống thường trực trên tinh thần cảnh giác cao độ, bức bách, vây khổn bốn bề trăm phía giữa thời buổi loạn ly, chinh chiến, bom đạn nổ tứ tung, đe dọa mạng sống hàng ngày như vậy, nhưng nhà thơ vẫn thở đều đặn, bởi hơi ấm rực ngời của ngọn lửa tịch mịch sáng tạo luôn luôn ngún cháy giữa cuộc lữ phiêu linh.
 
Chính vì thế mà các tác phẩm thi ca tha thiết, nồng nàn, thấm đẫm ruột rà tim phổi máu lệ lần lượt ra đời như Bọt nước, Hoa cô độc, Lời ru, Đêm nguyệt động, Vọng, Mộng du trên đỉnh mùa xuân, Tịnh hhẩu, Du sỹ ca…và những tập truyện ngắn, sâu sắc hàm súc, rung động lòng người, phản ảnh nhiều mặt của đời sống chung quanh như Cát bụi mệt mỏi, Cái chuồng khỉ, Xóm chuồng ngựa, Ngồi đợi ngoài hành lang với tập tiểu luận duy nhất Mười lăm năm thi ca miền Nam, chưa kịp xuất bản thì xảy ra biến cố năm 1975.
 
Sau biến cố vô thường dâu bể ấy, trong khi hàng ngàn người bị đi học tập cải tạo, đi lao động kinh tế mới, hàng triệu người vượt biên giới trùng dương ra nước ngoài thì Nguyễn Đức Sơn đơn độc, lặng lẽ rời bỏ Sài Gòn.
 
Nhà thơ đưa vợ con lên núi rừng Đại Lào ở Bảo Lộc, Lâm Đồng, sống trên đồi Phương Bối Am, nơi chốn cũ ngày xưa, Thầy Nhất Hạnh đã khai phá, dựng lập từ năm 1958. Bây giờ trơ trọi ngọn đồi hoang vu, cây cỏ dại mọc um tùm, chỉ còn một cái hồ chứa nước bằng xi măng hình chữ nhật cũng đủ cho cả gia đình thi nhân tạm trú trong đó.
 
Có đến tận nơi chứng kiến cảnh đời hiu hắt, khắc nghiệt của thi sỹ thì mới hiểu nổi hai câu thơ tiên tri đã viết tự bao giờ: “Sinh ra tôi có làm thơ. Để điêu linh vẫn như chờ riêng thôi.” Vâng, điêu linh, trầm thống vẫn bám theo đọa đày, vây khổn một hồn thơ tơi tả, rã rời:
 
Buổi tối đó bầu trời như muốn ngã
Tôi một mình ôm lấy bóng trăng tan
Mây thấp quá và hồn tôi tối quá
Không chỗ nào thở được dưới trần gian
 
Ơi chao! Dù sống trong tận cùng thống khổ, tang thương, nhưng thi nhân vẫn chịu đựng một cách nhẫn nhục phi thường, tự biến lòng mình thành đại dương sâu thẳm, chấp nhận, chất chứa và tiêu dung tất cả mọi thứ cặn bã của thế gian trút xuống, giống như họa sỹ Van Gogh: “Đau khổ không than van là bài học duy nhất chúng ta phải học trong cuộc đời này.”
 
Sơn Núi cũng vậy, chưa bao giờ nghe chàng than thở, oán hờn chi cả mà cứ lầm lũi sớm chiều, bằng chiếc xe đạp cọc cạch vào rừng kiếm củi khô, chở xuống chợ Blao đổi lấy gạo muối đem về.
 
Thế đó, một cuộc đời vô cùng thanh bạch, hết sức giản dị, đơn sơ, rất bình thường. Chẳng có gì cả ngoài một hồn thơ vẫn trào dâng bao nỗi niềm chi thao thức, nhức nhối quá diêu mang đến tận Ngàn sau:
 
Về đây say với trăng ngàn
Phiêu diêu hồn ngập giấc vàng đó em
Trăm năm bóng lửng qua thềm
Nhớ nhung gì buổi chiều êm biến rồi
Mai kia tắt lửa mặt trời
Chuyện linh hồn với luân hồi có không
Thái hư chừng sắp chuyển vòng
Đại dương tràn kéo núi đồng tan đi
Chúng ta giờ ước mong gì
Văn minh gởi cát bụi về mai sau
 
Thấu suốt tương lai như thi sỹ tiên tri thấu thị Rimbaud đã từng thấy, ngày mai đây “sa mạc lan dần” trên mặt đất hoang vu. Thấy rõ tận tường cõi người ta giữa thời đại văn minh cơ khí đang dần dần máy móc hóa con người.
 
Bọn hãnh tiến trên toàn thế giới đang muốn biến con người thành những công cụ để sử dụng theo ý đồ độc tài nào đó, thi nhân vất bỏ sạch sành sanh hết thảy mọi sự xuống đống rác thành phố khô kiệt, đơn độc quay về với thiên nhiên rừng núi…
 
Cúi xuống quỳ hôn lòng đất mẹ, hít thở cùng mây trắng, trăng ngàn, sương khói, cỏ hoa và đốt lên ngọn lửa tịch mịch quanh đây. Ngày ngày lủi thủi cuốc đất, làm rẫy, trồng thông, gieo hạt giống mầm chồi xanh tươi mới. Thế rồi, hàng ngàn cây thông đã phủ kín triền đồi thành một cánh rừng thông xanh rợp ngời bóng mát để cho hoa cỏ, bướm vàng hát ca lặng lẽ vô thanh giữa đất trời, tự tại một mình một cõi tự do Trăm năm ngàn năm:
 
Bởi quen ăn nói lừng khừng
Trăm năm xã hội không dùng được ta
Một đời vô lượng thơ ca
Ngàn năm trời đất bao la thở dài
 
Thái độ vô úy, không sợ hãi trước thế cuộc hỗn mang là một thái độ hùng tráng mà người thi sỹ đơn thân độc mã thể hiện giữa thời buổi dầu sôi lửa bỏng, đất bằng dậy sóng ngả nghiêng, làm đảo lộn hết mọi thứ giá trị cao quý, nhất là giá trị tinh thần, đạo đức cũng xuống cấp trầm trọng, hầu như không còn đất đứng nữa rồi.
 
Còn biết nói gì hơn là Tịnh khẩu, trước những kẻ ma cô xảo trá, lập lờ tráo trở trên trận đồ đảo điên của các thứ gọi là ý thức hệ, chủ nghĩa, học thuyết, tôn giáo, văn hóa, văn nghệ bây giờ.


Trước thảm cảnh bi đát đang xảy ra trên toàn cầu, khắp mặt đất trầm trọng, đau thương, cả thế giới đang bị đủ thứ vũ khí tối tân bằm nát bấy ra như thế, thi sỹ chỉ còn biết quay về với niềm im lặng, cô đơn.
 
Cô đơn như Henry Miller: “Một thi nhân chân chính, đích thực thì luôn luôn độc hành, tự do tự tại. Cái mà người thi sỹ cần, chính là sự cô độc, cô đơn.” Sống thường trực trong nỗi cô đơn để lắng nghe thơ hát giữa mông mênh vũ trụ và bàng hoàng thấy mưa lộng, nắng trào giữa thiên nhiên huyền ảo:
 
Tôi không thể hiểu vì sao
Mà ôi chao
Nắng trào
Tịch mịch
 
Tịnh hồn du sỹ, quy hồi đồi cao, bước lững lờ thơ bay đầy mây trắng. Ơi mây trắng, nắng vàng, hoa cỏ trổ lặng im. Trong niềm cô liêu, hiu quạnh, lặng hồn nghe nắng trào tịch mịch, vô vi, thi nhân nhẹ nhàng đưa chân lững thững về Cuối thu ở Phương Bối bồng bềnh:
 
Trưa đứng một mình đợi ai lên
Đất trời đâu có dưới và trên
Gò cao ổi sót rụng một trái
Dòi ăn một bên ta một bên
 
Hình ảnh “dòi ăn một bên ta một bên” thật cảm động, không thể nói nên lời. Phản ánh tình trạng nhà thơ đang đói, đói và đói, gian nan và khổ cực bức bách thường xuyên, ráo riết đến chỗ gần tuyệt lộ. Đỗ Phủ ngày xưa, chắc cũng nghèo xơ xác, hàn vi đến vậy là cùng.
 
Thế mà không biết có một phép mầu nào đó đã âm thầm, trợ lực cho thi sỹ vượt qua và vượt qua mọi thử thách, cực khổ, gian nan một cách ngoạn mục, thật gay cấn, ly kỳ. Chàng thi sỹ lầm lũi, đứng tách riêng một mình, một bóng như con tê giác, không gia nhập bất cứ tổ chức, phe nhóm, đoàn thể, đảng phái, tôn giáo nào cả.
 
Lặng lẽ rút lui về núi rừng hoang vắng tịch liêu, nằm lẫn trong sương mờ vạn cổ, gõ vào vách đá mà hát khúc hạo nhiên chi khí ca và sáng tạo, sáng tạo không ngừng qua từng hơi thở, từng tế bào mạch máu, từng bài thơ như Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi.
 
Bài thơ này được Trương Hồng Sơn, bạn cũ của Sơn Núi rất thích, như lời thi sỹ cho biết: “Ủa, hòa bình thế giới đã ló dạng từ lâu rồi, sao mà một tiến sỹ Việt Nam, làm việc ở Nasa, là chàng Trương Hồng Sơn gật gù ngâm nga ‘Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi’ của đãng tử Sơn lồn này!” Bài thơ chỉ có mấy câu thôi mà hàm ý sâu xa cả một kiếp người:
 
Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối chiều tà chỉ gặp bãi hoang sơ
Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô
 
Hư vô, hư vô, hư vô là gì mà thi sỹ rụng rời khi giáp mặt? Phải chăng, như nhà văn Hemingway, người đã từng đạt giải Nobel văn chương vào năm 1954, bị hư vô ám ảnh suốt một đời cho đến khi tự tử?
 
Không biết, không biết, thưa rằng chẳng biết chi mô, chỉ biết rằng, nắng trào, lửa cháy tịch mịch trong lòng chàng thi sỹ kỳ dị kia, rất yêu thích nghệ thuật, lấy nghệ thuật làm lẽ sống cho đời mình như có lần chàng tuyên bố trong Thay lời tựa tập thơ Tịnh khẩu:
 
Có sống nhiều năm ở Sài Gòn nhưng không hề thấy chút chi cái đẹp của thành phố và tự hỏi không hiểu vì sao hàng tỉ người có thể sống trong những đô thị lớn trên thế giới. Sẽ tự cứa cổ tự tử ngay, nếu một ngày nào đó đầu thai lên thấy đất của các đô thị, nhà cửa và khu kỹ nghệ tràn lấn quá nửa diện tích của núi rừng, sông biển, thác suối, ao đầm hồ…
 
Tự nhận là tha thiết với xã hội vô chánh phủ, khó có thể có trên thế giới này. Từ đó, từ đó thôi cũng dễ tắt thở rồi. Vậy chớ cái gì làm cho nó có thể còn sống được cho tới ngày nay? Ông Phật, ông Khổng và nhất là ông Lão, đành rồi, nhưng còn một ông bao trùm hết và hốt ba ông kia bốc cao lên: Ông Nghệ Thuật.”
 
Đúng thế, nghệ thuật là hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng ngôn ngữ, hình tượng sinh động cụ thể, gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng tình cảm tuyệt trần Chân Thiện Mỹ. Nghệ thuật là một phương tiện giúp cho chúng ta đạt tới chân lý, tới cái như thật, như thị, như như.
 
Sự thật khách quan như thế nào nhìn đúng như thế ấy, bản chất mình như thế nào nhận đúng như thế ấy nhưng dĩ nhiên, điều kẻ sáng tạo thấy biết đó, không phải là sự thực khách quan cứng nhắc, khô khan mà là sự thực sinh động, rung động hơi thở sự sống, rộn ràng nhịp đập thiên thu.
 
Như vậy, nghệ thuật ở đây là hơi thở, là đạo sống đích thực, sống hoàn toàn tự do tự tại, giải thoát mọi ràng buộc, mọi trói cột vào vòng nô lệ thế gian. Người nghệ sỹ vĩ đại là biết sống thanh thản, an nhiên giữa cuộc tồn sinh. Dù ở trạng huống bi đát nào thì cũng không run sợ, hèn nhát, van xin, vẫn tự tin chắc nịch vào nội tâm thâm hậu của chính mình.
 
Thể hiện qua thơ văn, nhạc họa, nhằm nhập diệu ngay vào cái thực tại hiện tiền, ngợi ca cuộc sống yêu thương, thưởng ngoạn cuộc đời rỗng rang vô sự. Từ cái nhìn đó, nhà thơ mở rộng lòng ra tâm sự cùng các con cái của mình, một điều chi Mai kia muốn dặn dò nhắn nhủ:
 
Mai kia tan biến hận thù
Giữa đêm sao chiếu mịt mù phương Đông
Cha về ôm cả biển sông
Duỗi chân duỗi cẳng nằm không một đời
Cho con cha hứa một lời
Đuổi mây thiên cổ rong chơi tối ngày
Thu nào tóc bạc òa bay
Có con chỉ trỏ mới hay cái già
Cúi hôn trời đất đậm đà
Cha tan theo bóng trăng tà vạn niên
 
Nguyễn Đức Sơn mà người dân ở quanh vùng phố núi Bảo Lộc đều gọi là Sơn Núi một cách thân mật, rất thương yêu vợ con và làm thơ dành cho con cái cũng khá nhiều. Bài nào cũng chắt chiu nhiều ý tứ sâu xa thâm trầm, vô cùng xúc cảm rưng rưng:
 
Mai kia cắp sách đến trường
Con nên học hỏi bình thường như ai
Trời sinh con dẫu có tài
Cũng không kéo được mộng dài thêm đâu
Một điều phải hiểu cho sâu
Trăm năm hai chữ vô cầu mà thôi
Nắm tay lật úp đi con
Co thân tròn trịa như hòn đá lăn
Muốn cho cuộc sống không cằn
Tập cho quen mất thăng bằng từ đây
Khuấy xong chén bột gạo rồi
Bồng con ra bếp cha ngồi cho ăn
Đường vàng mua quá khó khăn
Cha đành bỏ muối đừng nhăn mặt nào
Mặn thì dương tính phải cao
Mai kia cứng cáp con lao vào đời
Một mai cha chết đừng chôn
Ngại chưa xuất kịp chút hồn thiết tha
Có gì cha mói chưa ra
Biết đâu còn sót trong da máu này
Tuy nhiên đừng để lâu ngày
Đốt ngay lập tức là hay nhất đời
Con mang tro bụi xa vời
Gởi cho thiên địa chút lời mênh mông
 
Và thi sỹ dặn dò, nhắn nhủ mấy đứa con, một Niềm tin muôn thuở:
 
Bước vào thời đại không gian
Cha nghe đổ vỡ điêu tàn khắp nơi
Nhưng đừng tuyệt vọng con ơi!
Đêm sao hằng chiếu rạng ngời tâm tư
Cuối đường kìa bóng thảo lư
Trăng soi bát ngát Chân như hiện về
 
Thế đó, một bầy con sinh ra đều đặn dưới trăng mờ sương khói rừng xanh. Có hai cô gái út Phương Bối, Tiểu Khê, bây giờ đã lớn hết rồi. Trừ Đức Thảo đã mất, còn lại đứa nào cũng tung cánh chim trời, rời núi rừng hoang vắng, bay xuống vùng thung lũng bình nguyên. Biết sống tự lập và cũng biết mần thơ, nhất là thơ Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Đức Yên bàng bạc hơi giống hồn thơ lục bát của phụ thân.
 
Bởi do có nhiều con cái, lúc nhúc thê tử như vậy, làm sao không tránh khỏi phiền não, khổ lụy, nên chi Sơn Núi có lúc cũng Nói thật, một sự thật não nùng, túng thiếu của những gia đình nheo nhóc buồn thiu:
 
Ở ăn với mẹ mày nhiều
Có trưa hộc máu có chiều trào cơm
Có đêm quẩn trí sôi đờm
Sáng ra cuộc sống quá nhờm con ơi!
Ru con cha rống thấu trời
Oan khiên tan ở giữa đời cho mau
 
Sầu khổ thái quá, hân hoan thái quá, thi sỹ đi từ cực đoan này đến cực đoan khác một cách tự nguyện, tự dấn thân, liều lĩnh đương đầu cho đến tận cùng một vấn đề nào đó trong cuộc sống, như muốn khám phá để bùng vỡ ra điều chi bất khả tư nghì.
 
Quả thật, không thể nghĩ bàn chi được hết, chỉ còn một cách thể hiện bằng hành động nhập cuộc, ôm trọn tử sinh trong vòng tay nghiệp dĩ, vì biết rằng chẳng có gì hơn là mộng mị, ảo giác Tịch mạc hoang mê:
 
Rồi mai huyệt lạnh anh về
Ru nhau gió thổi bốn bề biển xưa
Trăng tà đổ bóng cây thưa
Mộng trần gian đã hái vừa chưa em?
 
Chắc có lẽ chỉ có Nguyễn Thị Phượng mới trả lời được câu hỏi này mà thôi. Ơi chao! Hình ảnh nàng thơ gầy mấy chục năm trời sống với chàng thi sỹ dị thường trên núi cao ấy là một hình ảnh đẹp não nùng như huyền thoại, đầy sức chịu đựng, kiên trì, nhẫn nhục, vô cùng độ lượng, bao dung. Tình yêu của con người trên mặt đất quả thật vô lượng vô biên, vừa huyền diệu, thiêng liêng mà cũng vừa phù du, huyễn mộng:
 
Sáng mênh mông
Ta đi thơ thẩn trong vườn hồng
Ồ bông ồ mộng ồ không
 
Sống bi tráng, làm ẩn sỹ riết trên núi đồi heo hút suốt mấy chục năm dài, thỉnh thoảng nhà thơ cũng thực hiện một vài chuyến phiêu lưu xuống núi thăm lại Sài Gòn phố. Thấy gì chăng hay chỉ thấm ngậm ngùi? Lui về núi cao, nằm lẫn trong khói sương mù, ngắm mây trời bay phơ phất, lãng đãng qua rừng thông những chiều Mưa trên thung lũng:
 
Êm êm chiều xuống chập chùng
Gió lên lùa cả mùa đông vào hồn
Sương mù giăng kín bản thôn
Mái khoan thai đếm giọt buồn theo mưa
Cây rừng chuyển giọng sầu đưa
Nhịp vang theo nhịp như xưa lắm rồi
Suối khô đã tiếp lượng trời
Ngày xanh tôi vẫn một đời tịch liêu
 
Tịch liêu một đời trên đồi thông rờn lạnh bóng hoang vu, sớm chiều thả bộ lững thững gậy trúc dạo chơi. Đôi khi đưa mắt ngó nhìn xuống thung lũng ùn lên la đà khói sương sa, lã lướt quanh triền đồi non núi lạnh pha phôi rồi lặng thầm cảm nhận Những ngày quá vui:
 
Về đây lỗ nhĩ hư rồi
Cơm ngày hai bữa khỏ nồi mà ca
Chợ đời xí xọn gần xa
Ta ngồi nói chuyện với ma hết đời
 
Nói chuyện với ma và đàm đạo với giáo chủ U Minh nữa:
 
Hỡi U Minh giáo chủ
Trăm năm mần chi đủ
Con hát hoài không thôi
Lướt trên mồ cỏ phủ
 
Với Sơn Núi, ma tức Phật, chẳng hề khác nhau chi cả. Cho nên, nói chuyện với ma cũng là một cách song thoại với Phật vậy. Bây giờ trên đồi thông Phương Bối đã xây thêm một ngôi nhà có vài ba phòng tiện nghi tương đối, do sư bà Huệ Giác, viện chủ Quan Âm tu viện ở Biên Hòa và sư cô Hương Nhũ, du học từ Ấn Độ về, tận tình giúp đỡ, tài trợ cho gia đình thi sỹ.
 
Sơn Núi ít khi nghỉ ngơi đây mà ở biệt lập một am vắng trên đồi cao nhất Phương Bối, nằm ẩn hiện giữa những bụi trúc xanh vàng, lãng đãng sương mù bàng bạc, mênh mang. Sớm chiều lội lên vòng xuống quanh mấy triền đồi thông trúc biếc, song thoại thầm thì với cây cỏ, lá hoa mà Cảm thán:
 
Sướng quá đời ta tuổi sắp già
Bao nhiêu học thuyết bước đều qua
Nay về dắt bóng chơi am vắng
Ấu trĩ vườn trăng một tiếng gà
 
Một tiếng gà rừng gáy trưa đâu đó giữa đồi thông vọng lên văng vẳng, rồi tan loãng bay là đà theo sương khói chập chùng, lan tỏa khắp Vân am:
 
Nhờ hồng phúc
Mà nay
Mặc dù đã có gia đình bậy bạ rồi
Tôi vẫn đang ngủ trên am mây
Với những bậc thầy
Muôn thuở trước
 
Còn nghìn năm sau, nếu có ai chợt nhớ đến nhà thơ Nguyễn Đức Sơn thì cứ việc thoải mái, như lời Nhắn gởi khơi vơi:
 
Đời sau người có thương ta
Từ lâu xuống lỗ làm ma mất rồi
Đường xa thôi miễn bồi hồi
Mả hoang nhảy đại lên ngồi đi cha
 
Lạ lùng thay! Hình ảnh cái chết của nhà thơ hiện ra quả nhiên là quá tuyệt, tuyệt như tiếng vọng trong ngần, phất phơ giữa vô tận không gian và thời gian Tịch mịch:
 
Ngàn sau
Phơ phất gò bông lau
 
Không còn chi, chỉ còn nghe âm vang Bát nhã vọng trầm văng vẳng “sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc…Thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm…”:
 
Mai kia từ giã cõi đời
Đừng nghe cái cẳng từng rời cái chân
Cái xa nhập với cái gần
Cái lạ lẫm cái thiết thân một rồi
Không có đứng không có ngồi
Không trên không dưới bồi hồi là sao?
Không nghiệt ngã không ngọt ngào
Trần gian trở lại ta chào chính ta
 
Chính ta là cái gì? Cái ấy là cái chi? Một công án Tổ sư Thiền dựng đứng lên sừng sững, khó thể vượt qua nhưng cũng có thể nhìn thấy cái Cốt lõi:
 
Của tình yêu
Không phải là tình yêu
Mà chỉ những kẻ thật
Đăm chiêu
Mới nhìn thấy
Cũng như cái ấy
Không phải là cái ấy
Mới là cái ấy
 
Mầu nhiệm không những là cuộc sống đang là mà còn hiện hữu ở bên kia sự chết nữa, qua thần lực, sức mạnh của nghệ thuật thi ca, nhà thơ đã vượt lên trên cái chết ngay trong sự sống từng giây phút nhiệm mầu:
 
Sau hết
Chỉ còn thơ
Rung mờ
Thiên cổ
 
Thiên cổ mờ rung một hồn thơ bất tận… Rất nhiều lần rồi, tôi về thăm Sơn Núi, cùng dạo quanh sườn đồi thong dong, lòng rỗng rang như mây trắng. Nhắc lại hồi xưa, thời Sơn Núi còn lưu trú chùa Trúc Lâm ở Gò Vấp, Sài Gòn, tôi cũng thường hay ghé chơi. Có lần cùng thi sỹ đạp xe rong rêu lên Lái Thiêu, Bình Dương chơi suốt mấy ngày đêm rồi mới quay về.

Thời đó là năm 1973, tôi đang theo học Đại học Vạn Hạnh, mới tập tành mần thơ và học được ở thi nhân rất nhiều về kinh nghiệm sáng tác văn chương…

Phương Bối đồi thông lộng gió mây trời thiên thanh vĩnh thúy, thỉnh thoảng cũng rộn ràng bao gót chân lang bạt đi về, những chàng lãng tử, tứ xứ mười phương, những bạn bè vong niên, thân thiết đều tìm lên Phương Bối viếng thăm, ngồi nghe Sơn Núi văng tục chửi thề cho vui…
 
Gần đây nhất vào tháng 6 năm 2016 du sỹ này lại bầu rượu túi thơ lên cao nguyên, ngồi cùng Sơn Núi, khề khà đủ thứ chuyện văn nghệ trong quán cà phê Lối Xưa ở phố núi Bảo Lộc, một chiều phiêu phất, lạnh nhòa hoa nắng lưa thưa. Bữa đó, cao hứng mần bài thơ Sơn Núi này tặng thi sỹ trước khi từ giã:
 
Gió bụi mù du sỹ ca
Qua bờ khốc liệt khiến nhà thơ câm
Tịnh khẩu rồi lặng âm thầm
Trầm đêm nguyệt động hỡi thâm xứ nào
Tưởng chừng như giấc chiêm bao
Bao nhiêu bọt nước vỡ trào bấy nhiêu
Vọng sầu thiên cổ tiêu điều
Ngút đồi hoang dại khói hiu hắt vờn
Hoa cô độc trổ cô đơn
Rợn màu máu lệ rợn hồn rưng rưng
Lời ru vẳng gió sương rừng
Mộng du trên đỉnh mùa xuân một mình
 
Và bài Phương Bối trên đồi thông ngát này nữa:

Trúc xanh vươn thẳng trời cao vút
Uống sương ăn khói giữa rừng hoang
Chiều mưa trút xuống đồi Phương Bối
Rồi nắng bừng lên ngát thông ngàn
 
Ngàn thông lộng gió từ thiên cổ
Thổi về vi vút suốt đời thơ
Đã tu chín kiếp thành thi sỹ
Nhìn đâu cũng thấy đẹp sững sờ
 
Thơ trong ruột đất huyền âm mật
Ngân vang cái giọng Nguyễn Đức Sơn
Giọng thơ chẳng lẫn vào đâu được
Nên nhập thâm sâu đến rợn hồn
 
Hồn trăng lặng tỏa màu tịch mịch
Nằm giữa đồi khuya ngắm nguyệt tà
Thấy sai hay đúng đều trật hết
Chỉ có em cười mới trổ hoa
 
                                                                                     Tâm Nhiên
 
*

Thơ Nguyễn Đức Sơn, trích trong các tác phẩm:
Lời ru. Mặt Đất xuất bản. Sài Gòn 1965
Đêm nguyệt động. An Tiêm xuất bản. Sài Gòn 1967
Vọng. An Tiêm xuất bản. Sài Gòn 1972
Tịnh khẩu. An Tiêm xuất bản. Sài Gòn 1973
Thơ và đá. Văn Học Press xuất bản. Hoa Kỳ 2019
Chút lời mênh mông. Đà Nẵng xuất bản. 2020
* Nietzsche. Tôi là ai? Phạm Công Thiện dịch. Phạm Hoàng, Sài Gòn 1970
** Trúc Thiên. Hiện tượng Krishnamurti. An Tiêm, Sài Gòn 1967
*** Rainer Maria R
 
Nguồn:
http://www.art2all.net/tho/tamnhien/nguyenducson.html

Không có nhận xét nào: