BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 24 tháng 8, 2017

NHỮNG DẠNG THƠ VIỆT NAM ĐẶC BIỆT, PHẦN III : THƠ NÓI LÁI - La Thụy sưu tầm và biên tập

Sau khi giới thiệu dạng thơ bình thanh, dạng thơ đọc nhiều cách và dạng thơ Việt đệm ngoại ngữ đến quý bạn đọc. Hôm nay, chúng tôi mời quý bạn đọc thưởng thức thêm một dạng thơ Việt Nam đặc biệt nữa, đó là dạng thơ nói lái     

         
                              La Thụy

     NHỮNG DẠNG THƠ VIỆT NAM ĐẶC BIỆT - PHẦN III :
                                       THƠ NÓI LÁI

Những nhà thơ chuyên viết dạng thơ nói lái là nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhà thơ Bùi Giáng, nhà thơ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi, nhà thơ Võ Quê.

Đọc thơ HỒ XUÂN HƯƠNG, chúng ta thấy bà nói lái thật dí dỏm:

     Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
     Trái gió cho nên phải lộn lèo. 
                          (Kiếp Tu Hành)

     Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
     Hỏi thăm Sư cụ đáo nơi neo.
     Chày kình, tiểu để suông không đấm,
     Tràng hạt, vải lần đếm lại đeo. 
                           (Chùa Quán Sứ)

     Đang cơn nắng cực chửa mưa hè,
     Rủ chị em ra tát nước khe. 
                             (Tát nước)

     Thú vui quên cả niềm lo cũ
     Kìa cái diều ai nó lộn lèo. 
                        (Quán Khách)  


Nhà thơ trào phúng TÚ MỠ (Hồ Trọng Hiếu, 1900-1976) có bài "Lỡm cô Ngọc Hồ" với hai câu nói lái phong cách Hồ Xuân Hương:

      HỒ tù ngán nỗi con rồng lộn
      NGỌC vết thương tình kẻ cố đeo
      (Nhắn khách Băng Tâm ai đó tá
      Mỹ danh hai chữ, nghĩ buồn teo.)

Nhà thơ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi (1881 - 1968) là nhà thơ Huế giàu tài năng ông xuất thân nho học, thông thạo chữ Hán, am hiểu tiếng Pháp và chữ quốc ngữ. Ông đã làm những bài thơ nói lái như sau:
     
     Cầu đạo nên chi phải cạo đầu
     Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
     Na bường bát tới nương bà vải
     Dầu sãi không tu cũng giải sầu.

     Làng vọng còn hơn cái lọng vàng
     Mang sơ tấm áo, chớ mơ sang
     Nhắn bạn lên non đừng bắn nhạn
     Hang lỗ tìm vào bắt hổ lang

     NHỚ BẠN 
     Nhắc bạn những thương tình nhạn bắc
     Trông đời chỉ thấy cảnh trời đông
     Đêm thâu tiếng dế đâu thêm mãi
     Công khó chờ nhau biết có không 

     ĐÊM ĐI ĐÒ ĐẬP ĐÁ
     Đập cũ đò đưa đủ cặp đời
     Trời cho sức khỏe lắm trò chơi
     Có đôi, khi rảnh lên côi đó
     Cười ngả nghiêng cho mệt cả người
                                             Thảo Am 
           
Hoặc một số bài thơ khác:

    Đời chua, bậu cứ thử đùa chơi
    Chơi ngỗ xong rồi, kiếm chỗ ngơi
    Bến đậu thênh thang, mời bậu đến
    Ngồi đây say tít, ngất ngây đời.

    Mỗi độ xuân sang chả có gì (chỉ có già)
    Giàu sang, keo kiệt để mà chi? (đĩ mà chê?)
    Vui xuân chúc tết cầu gia đạo
    Cạn chén tiêu sầu tiễn người đi.
    Lũ quỷ nay lại về luỹ cũ
    Thầy tu mô Phật cũng thù Tây
                                  Thảo Am 
                                    (1946)

    Trông khống vô phòng thấy trống không
    Chứa chan sầu lệ chán chưa chồng
    Dòng châu lai láng dầu chong đợi
    Bóng nhạn lưng chừng, bạn nhóng trông
    Nhòm ngó đã cùng nơi ngã đó
    Mơ mồng bên cạnh gối mền bông
    Đêm thâu mưa gió đâu thêm mãi,
    Xông lướt đi tìm phải xước lông.

Nhà thơ BÙI GIÁNG, tự gọi mình là Bán Dùi, Bàng Giúi vì ông ưa nói lái. Ông thường dùng những từ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp… trong thơ của ông

      Lọt cồn trận gió đi hoang
      Tồn liên ở lại xin làn dồn ra
                           (Mưa nguồn)

     Cá ở ngoài khe có ít nhiều
     Cồn lau cỏ lách có hoang liêu
     Em về có hỏi răng ri rứa
     Nhắm mắt đưa chân có bận liều.  
                                (Bờ trần gian)

     Quá khứ liên tồn vô ngấn tích
     Sáng tiền minh nguyệt chiếu hoàng mao
     Hai hàng mọc cỏ thu sương ngậm
     Vành vạnh lê hoa chước chước chào… 
      (Sa mạc phát tiết, Quỷ ma đối thoại)

     Không trước tồn lập con mèo,
     Thì trước tập trung con cá 
     Không trước liên tồn cái lá, 
     Thì trước tồn lý lún phún in rêu 
                             (Chấp Trước)

     Có mấy ngón
     Năm ngón
     Mười ngón
     Món người
     Non ngắm
     Nắm ngon
     Hoặc là năm ngón nón ngăm
     Màu đi trên nước cá tăm chuyên cần
     Nón ngăm dặm bóng xoay vần
     Đọng nơi góp tụ và chần chờ đưa.
                         (Trong bàn chân đi)

    Tháng theo ngày dậy rằm xanh nguyệt
    Ba góc càn khôn lộn bốn trời. 
        (Sa mạc phát tiết, Đường cong) 

"Ba góc càn khôn lộn bốn trời" chỉ là ngôn ngữ tượng trưng trong thi ca, nhưng chắc phải quyến rũ lắm, đam mê lắm, nên Bùi Giáng mới ngất ngây giữa thi tứ như rứa…

Nhà thơ Nguyễn Thái Dương cao hứng lên làm một bài thơ lái thật tinh nghịch. 

     Mực ngò, mực ngó, mực ngằn
     Mực, bao nhiêu mực chẳng bằng mực nghi
     Chao ôi bất luận mực gì
     Vẫn thua mực ngút li bì sớm hôm.

Nhà thơ Võ Quê xứ Huế, bắt đầu làm một bài thơ nói lái cảm tác từ trận lụt kinh hoàng năm 1999 ở Huế:

     Trời lụt ca nhi cũng trụt lời
     Trời đong mưa lũ xuống trong đời
     Vái lạy lụt tan lành váy lại
     Đời cho du khách dạo đò chơi.

Bài thơ này được thi hữu truyền tụng ngâm ngợi khi trà dư tửu hậu, tạo đà cho tác giả tiếp tục sự nghiệp “thái lơ” của mình. Ông viết một loạt 50 bài thơ nói lái in trong tập NGƯỢC XUÔI THẾ SỰ, do nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2011.

      Đầu năm thi tứ nằm đâu?
      Sắc màu nhân thế đượm sầu mắt ai?
      Ngược dòng thế sự láng lai
      Lang thang nhặt lái một vài câu chơi!

Có bài thơ ông nói lái bỡn cợt bông đùa, tung hứng cùng bạn rượu:

      Một chai mai chột, coi chừng!
      Nhị chai nhai chị tưng tưng ngà ngà
      Ba chai là bai nghe cha!
      Bốn chai cẩn thận kẻo mà bái chôn
      Ngũ chai ngai chủ hùng hồn
      Sáu chai sai cháu bếp cồn luộc tôm!

Có khi, bỗng nhiên ông TỰ HỎI:

     Viết câu chi đó?
     Có viết chi đâu!
     Trống rỗng tim, đầu
     Tìm đâu chữ nghĩa...

Rồi bật cười, ông lại TỰ TRÀO:

     Mùa lễ hội thơ hoa lỗi hệ
     Lục bát đành lạc bút từ khuya
     Đợi lâu mới biết đâu có lợi
     Bìa treo đây mai ruột đầy bia?

Những vấn đề thời sự xã hội gieo cho nhà thơ Võ Quê trăn trở:

     Dầu xăng tăng giá dạ giăng sầu
     Đầu tiên trăn trở bạc tiền đâu
     Giật gấu vá vai theo vật giá
     Thâu đêm nhức nhối nghĩ thêm đau!

     ***
     Biến chất điếm đàng đi chiếm đất
     Cánh đồng xoang bởi quán đồng xanh
     Hối mại chức quyền gieo mối hại
     Lanh mưu thoái hóa thật lưu manh!

     ***
     Dân mình hiến đất xây trường
     Quan tham lấn đất trầy xương thầy trò
     Học đường lắm nỗi sầu lo
     Quan tham thì vẫn trùm sò dài lâu.

Ngoài nhà thơ Thảo Am, nhà thơ Bùi Giáng, nhà thơ Võ Quê còn có các nhà thơ Bùi Tiến, Tường Linh, Y Nguyên... cũng sáng tác thơ nói lái.
   
   LOẠN
   Loạn thật đau thương, đời thật loạn
   Đông Tây muôn kiếp vẫn Tây Đông
   Trái ngang ai kẻ phân ngang trái
   Không thấy thanh bình, ai thấy không ?
                                               Bùi Tiến

    LỠ THÌ BÁT PHỐ
    Ngày tối mơ màng một mối tơ
    Mơ chồng nên luống nhũng mong chờ
    Có người phơi phới vui cười ngó
    Riêng tớ êm rơ tiếng khóc hờ
                               Y Nguyên

Có cuộc xướng họa thơ nói lái của các nhà thơ Bùi Tiến, Y Nguyên, Lão Dương, Tùng Linh thật vui nhộn như sau:

    VÒI VĨNH VỢ, VỢ... VỜ VĨNH
    Chồng yêu mà vợ chẳng chiều ông
    Lại tống lầm đi một tấm lòng
    Biết vậy thà ngồi mà viết bậy
    Bế bồng khăng khít cũng bằng không !
                                            Lưỡng Dao

Bùi Tiến trả lời thay Lão Dương (nói lái của Lưỡng Dao) phu nhân:

    CÓ NÊN CHIỀU ÔNG CHỒNG YÊU ?
    Không ông đâu được phải không ông
    Nghe lóng rồi ra cũng rối lòng
    Táo bạo, xưng ông, chà táo bạo
    Chồng khiêu khích vậy, đáng chiều không ?
                                                       Bùi Tiến

Lão Dương phu nhân bổ túc Bùi đại nhân :

    CHỒNG CHÍ CHÓE
    Lòng thòng em quá, chẳng thèm ông
    Long tong lờ lửng sợi tơ lòng
    Lài rài mấy chén xong rầy mãi
    Lốc thốc khinh đời rứa thích không ?
                    Lão Dương đại phu nhân

Đến lượt Nhị phu nhân lên tiếng:

    VỢ VẪN VẤN VƯƠNG
    Chồng ơ thờ mấy cũng chờ ông
    Lêu lỗng tầm đâu được tấm lòng
    Cậy chàng yên vị, ông càng chạy
    Công khó chờ ông biết có không ? * 
                Lão Dương nhị phu nhân
  * Trộm phép đạo thơ cụ Thảo Am

Tam phu nhân cũng cất lời :

    MÈO NÀO CẮN MĨU NÀO
    Chồng ôm thủ thỉ bám chồm ông
    Long đầu hai vị chớ đau lòng
    Tắc tíc gia truyền môn tíc tắc
    Khởi công khe hở khẽ cởi... không !
                         Thay mặt Tam Muội
                                 Tùng Linh

Nhị nương và Tứ nương chỉnh Tam nương :

    LỬA TAM MUỘI – QUẠT BA TIÊU
    Đã bốc ăn rồi lại bắt ông
    Buông lỏng, lừa nhau cướp lửa lòng
    Quạt Ba Tiêu bạt qua Tam Muội
    Lộc bổng kho đầy lại bỏ không !
                  Nhị nương và tứ muội

Bùi Tiến đại nhân nhắn nhủ :

    GỬI CÁC PHU NHÂN BÉ
    Bồng, A! ba bốn cũng Bà Ông
    Lừa lọc đuờng đời, cốt được lòng
    Cát Lũy cố ganh phần Quý Lạt
    Công không yên phận kẻ công không
            Thay mặt Lão Dương phu nhân
                              Bùi Tiến

Quý phu nhân không những xổ nho cùng điển tích mà còn xổ tiếng Tây, tiếng U (Ah Bon – Bồng, A) ra nữa, chắc chắc Lão Dương mệt hung rồi đây! Nhưng, nghe các bà om sòm ỏm tỏi, Lão Dương chẳng những không đòi dưỡng lao mà còn dọa sẽ nổi dóa bốc đồng lên :

    BỊT MỒM BỐN MỤ
    Mọi phòng yên hết ! Chớ phiền ông 
    Cả rống làm ông rối rắm lòng ! 
    Xáo, xào không học, lo xào xáo 
    Ông bốc, khiêng bà nữa, biết không !
                                          Lão Dương

"Hốt văn sư tử Hà Đông hống" như rứa mà Lão Dương còn cương mãnh, trị được bệnh xào xáo của bốn bà, oai phong thiệt! Người sưu tầm THƠ NÓI LÁI này xin bái phục!

Nhà thơ Thái Quốc Mưu cùng thi hữu trong lúc trà dư tửu hậu cũng vui xướng họa thơ nói lái.

    CẢNH THU
    (Hay bài thơ “lạc vận mà không lạc” )
    Thu đội lá vàng ta đội thu
    Tranh thu rồng lộn giữa mây mù
    Trên cành đổ lá con công ngủ
    Chiếc võng nghiêng đầu dáng mẹ ru
    Góc đá chàng trai ngồi lặt cỏ
    Ven song mấy ả đứng rờ hoa
    Trong thuyền cô gái chôn lời vội
    Chàng trẻ khom lưng bít lỗ lù      
                        Thái Quốc Mưu

   THU ĐẬM SẮC MÀU
   Thu đệm nhạc buồn đậm sắc thu
   Thu ca lời hát đẫm sương mù
   Thu cong mặt lá vàng phiên khúc
   Thu cỡi đài hoa tím điệu ru
   Thu Vũ đại ca tay lắc cọ (1 )
   Thu huynh Thái Quốc trí tìm mưu (2 )
   Thu nhiều cảm xúc hồn lơ láo
   Thu cũ trong ta hiện lú lù                       
             Thiết Bình Nương Tử

   (1) Anh Vũ Hối chỉ với cây cọ long mà viết như vẽ tranh 
   (2) Anh Thái Quốc Mưu

Anh Nguyễn Văn Quang cựu học sinh trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị (1967 - 1970), có những câu thơ nói lái vui như sau:

    Bố nghi bí ngô báo đi bí đao,
    Can ông công an đi ông đông y!
    Nhà lợp tồn lo nắng cực!
    Tập thể giục tập thể tập thể dục tập thể
                                 Nguyễn Văn Quang

Chúng tôi giới thiệu thêm một số câu thơ nói lái truyền khẩu của nhiều tác giả khuyết danh khác
                            
     "Chú phỉnh" tôi rồi "chính phủ" ơi,
     "Chiến khu" đong lúa "chú khiên" rồi
     "Thi đua" sao cứ "thua đi" mãi
     "Kháng chiến" lâu rồi "khiến chán" thôi !!!

     ***
     Phấn lau chưa dứt nghe pháo lân 
     Tân niên rót rượu mời Tiên nâng 
     Cô dâu hứa đải ăn dưa hấu 
     Chú rể tinh thần tựa tình thân 
     Có ông phó đảo châm pháo đỏ 
     Chú lính xuân qua muốn xa quân 
     Mang vài chậu kiểng mai vàng rộ 
     Xin tuần nghỉ phép thoả tình xuân 

    ***
    Về thường thăm lại vườn thề 
    Buồn lo trăm mối não nề bò luôn 
    Cuộn cho dùi mập cọ chuông 
    Người giàu sâu hiểm, chớ buồn dầu sao 
    Đau lòng lên tận Đông Lào 
    Thầy tăng ra đón, vẩy chào thằng tây 
    Tây đà vốn biết ta đầy 
    Bầy gà tre gạ đổi ngay ghe trà 
    Chả thằng nào bảo chẳng thà 
    Đổi trao như vậy chắc là đảo trôi 
    Vội ta mắc phải vạ tôi 
    Đành thôi vác chiếu về ngồi đồi thanh 
    Bánh ong* để dưới bóng anh... (bánh tổ ong) 
    Ăn rồi chợt nghỉ lanh quanh : Ôi rằng 
    Bắn trong khung vẻ bóng trăng 
    Làng thâm u quá cũng bằng lầm than 
    Ngang vài cung gấm ngai vàng 
    Khổ lòng ngắm thử y chang khổng lồ 
    Cố ra tìm bắt cá rô 
    Kho chi một tộ khi cho họ mừng... 

    *****
    Ban ngày lặt cỏ tối công phu
    Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu
    Ngày ta địa chủ, đêm tu đạo
    Đạo chi lạ rứa: "Đạo ù ù".

    *****
    Thầy giáo tháo giầy, tháo giáo án dán áo
    Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa, nhòa cả hương
    Làm giáo chức, phải giứt cháo
    Thảo chương, rồi để được ... thưởng chao
    Nhường luôn hết cả nhà xe, nhè luôn hết cả xương
    Nhường luôn miếng đất, nhất luôn cả miếng đường
    Nhường tới tận rau, nhàu luôn tới tận xương
    Nhường tới cái túi, nhúi ... tới cái tường
    Lấy lương hưu, để lưu hương

    ***
    Chiều ba mươi, thầy giáo tháo giày ra chợ bán 
    Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang. 

     ****
    Thương em, muôn kiếp còn thương mãi, 
    Em nỡ đem tình anh thảy mương. 
    Đêm ngủ anh nằm thê thảm khóc, 
    Câu thề năm cũ quẳng ra đường...
                                              A Lin.
    *****
    Qua hố lội gặp thằng hối lộ
    Câu đầu tiên nó hỏi tiền đâu?
    Xin chữ ký? anh nghe kỹ chứ?
    Một đấu vàng? Ôi, thật váng đầu!

    *****                                             
    Má đưa con đi trong mưa đá
    Má đặt con lên mặt đá bằng
    Má đi vào xem mi đá bóng
    Má đang mang đá tới lót nền
    Má lột một lá dính vào phên
    Má lấy bên hè đi mấy lá
    Má lòn mòn lá cửa ngoài hiên
    Má cần mần cá để kho liền
    Má cắt con mắt cá đầu tiên
    Má cũng mua đầy hai mủng cá
    Má can con ăn mang cá kình.

    *****
    Con cá đối nằm trên cối đá
    Cô dâu hứa đi mua dưa hấu
    Cô láng giềng tắm bên giếng làng
   Thằng bé mồm to lặn lội mò tôm

    *****
    Gái Củ Chi, chỉ cu hỏi củ chi
    Thầy tu tâm lại rất thù Tây
    Thằng Tây cũng rất ghét thầy tăng
    Bức tranh lộng kiếng đem liệng cống
    Điều kiện đầu tiên là... tiền đâu ?
    Thầy giáo tháo giầy đi chân đất
    Tiền thân mình có phải thần tiên ?
    Kỹ sư giàu vẫn hơn cư sĩ nghèo
    Uống trà Thái Đức đêm thường thức đái
    Sống ở Thủ Đức năm canh thức đủ  
                                 
NÓI LÁI Ở NGÔN NGỮ KHÁC

Cách nói này cũng được nhiều  quốc gia khác sử dụng.

 Thí dụ trong tiếng Anh: "The Lord is a shoving leopard"  (thay vì "The Lord is a loving shepherd") - gọi là Spoonerism.

 Thí dụ trong tiếng Đức: "Auf der Liebesreise // sprach der Leibesriese: // "Reib es, Liese!" // Und sie rieb es leise." - gọi là "Wortdreher" hay "Buchstabend  reher", cách làm thơ có vần như thế gọi là Schüttelreim.

Văn hào VOLTAIRE của Pháp (1694-1778), tên thật là François Marie AROUET, lấy tên thành phố quê hương là Airvault (thuộc vùng Deux Sèvres) nói lái là Vault – Air để có bút danh Voltaire đó mà!
                                                 La Thụy sưu tầm và biên tập

Không có nhận xét nào: