BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2025

XUÂN BẤT TẬN – Thơ Tịnh Bình


   

 
XUÂN BẤT TẬN
 
Gõ cửa hỏi mùa xuân năm trước
Đã đi đâu và trở về đâu
Rắc phấn đưa hương chi cánh bướm
Tìm xuân mất dấu tự khi nào
 
Trùng trùng sương khói đâu thấy lối
Mịt mờ nhân ảnh cõi chiêm bao
Mưa cùng nắng say cơn phù phiếm
Hải triều âm vọng tiếng lao xao
 
Gõ cửa tầm xuân đành chẳng gặp
Đường trần gót mộng dấu hài xưa
Chợt thấy vô vàn gương mặt cũ
Bỗng hóa thanh tân một nét cười
 
Chẳng đợi hoàng mai bừng sắc thắm
Đâu phải én về mới hay xuân
Gió phơi phới đất trời vô tận
Không sinh chẳng diệt mãi thường hằng...
 
                                                Tịnh Bình

*
Họ tên: Nguyễn Thị Bình (Tịnh Bình)
Địa chỉ: 20AB Khu Phố 1, Thị Trấn Gò Dầu, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh

BÂY GIỜ, NỢ NẦN, CON NGƯỜI, CẢM THƯƠNG, CON SÁO, MÙA XUÂN, ĐÁNG CHÁN ĐÁNG VUI, KHÔNG KHÔNG, HAI NƠI, TAN HỢP – Thơ Chu Vương Miện


   
 
 
MÙA XUÂN
 
hoa nở vào mùa xuân
cũng tàn luôn vào mùa xuân ?
lá xanh vào mùa xuân
lá vàng đỏ vào mùa thu
rụng vào mùa đông ?
năm này năm khác
trái đất quay một vòng
ngày nào thì cũng vậy
hết mặt trời mặt trăng
hết sáng thì lại tối
hết khuyết lại tròn
vẫn là vàm sông
cây đa bến cộ
nước lưng lưng giòng ?
 

TẾT – Nguyễn Xuân Diện



Tết là tiếng Việt. Người Trung Hoa chỉ có “tiết” mà không có Tết.
Tiết là nghĩa gốc là đốt, lóng thực vật; như đốt tre, trúc, tức là cái khoanh cứng chia cây tre trúc thành từng đoạn (đốt).

Thời gian trong vũ trụ mênh mông quá, nên người Trung Hoa cổ đại phải phân khúc, chia đoạn ra thành từng canh, từng khắc, nay gọi là giờ, phút, giây. Đêm thì gọi là canh - Đêm năm canh (mỗi canh giờ là 2 tiếng); Ngày sáu khắc. Năm có bốn mùa, 24 tiết khí. Tiết đầu tiên sau giao thừa là Tiết Nguyên đán (Nguyên: Đầu, đầu tiên. Đán: Mặt trời ló lên, là ngày).


Ngày đầu năm người Trung Hoa gọi là Tiết Nguyên đán. Người Việt gọi là Tết Cả, tức là Tết đầu tiên trong năm, cũng là Tết lớn nhất trong năm.
Người Việt dùng âm lịch, tức là lịch mặt trăng. Người Trung Hoa cũng dùng lịch mặt trăng. Nhưng cách tính và làm lịch của ta khác Trung Hoa, điều này đã được các cụ Hoàng Xuân Hãn, Lê Thành Lân nói từ lâu.
                                                                             Nguyễn Xuân Diện

XUÂN HIỂU (春曉) THƠ THIỀN CỦA TRẦN NHÂN TÔNG – Phan Lương, Trần Khâm.

Trần Nhân Tông (陳仁宗, 1258–1308) là vị hoàng đế thứ ba của triều Trần, nước Đại Việt. Ông trị vì từ năm 1278 đến tháng 4 năm 1293, sau đó lui về làm Thái thượng hoàng và dấn thân vào con đường tu hành, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm. Trần Nhân Tông không chỉ là một nhà chính trị kiệt xuất mà còn là một nhà thơ, một thiền sư với những đóng góp quan trọng cho văn hóa và tư tưởng của dân tộc.


 
春曉 
睡起啟窗扉,
不知春已歸。
一雙白蝴蝶,
拍拍趁花飛。
 

XUÂN HIỂU 
 
Thuỵ khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.
 
Dịch nghĩa:
 
BUỔI SÁNG MÙA XUÂN

Ngủ dậy mở cánh cửa sổ,
Nào hay mùa xuân đã về.
Một đôi bướm trắng,
Đập cánh bay về phía hoa.
 
Dịch thơ:
 
Ngủ dậy ngỏ song mây,
Xuân về vẫn chửa hay.
Song song đôi bướm trắng,
Phấp phới sấn hoa bay.
                (Ngô Tất Tố)
 
Ngủ dậy mở cửa sổ,
A, xuân về rồi đây!
Kìa một đôi bướm trắng,
Nhằm hoa, phơi phới bay.
                 (Trần Lê Văn)
 
Bài kệ này được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt, ngắn gọn nhưng chứa đựng ý nghĩa sâu sắc. Câu mở đầu như một sự khai mở, vừa mang ý nghĩa đen là mở cửa sổ, vừa mang ý nghĩa bóng là sự thức tỉnh tâm hồn sau giấc ngủ.
 
Câu thứ hai là khoảnh khắc nhận ra xuân đã về, biểu tượng cho sự giác ngộ khi con người thấu hiểu sự vận hành tự nhiên của đất trời. Từ đó, hai câu cuối khép lại bài thơ bằng hình ảnh đôi bướm trắng bay lượn giữa những khóm hoa – một biểu tượng tinh tế của đạo lý và sự hòa quyện giữa con người với thiên nhiên.
 
Đây là tinh thần của thiền, nơi mọi điều bình dị trong cuộc sống đều chứa đựng vẻ đẹp và sự giác ngộ sâu xa.
 
                                              Phan Lương và Trần Khâm giới thiệu

PHÚC LỘC SONG TOÀN – Ung Chu, theo Hán-Việt Thông Dụng, Tranh dân gian Việt Nam

 

Chuyên mục nhằm thuyết minh các kí tự Hán và Nôm trên các tác phẩm tranh dân gian Việt Nam, giúp người Việt Nam hiện đại cảm thụ rõ hơn nội dung các bức tranh này. Tranh dân gian là các di sản Hán - Nôm có giá trị, có sức sống bền bỉ và độ tiếp cận rộng rãi trong dân chúng.
--
"Phúc lộc song toàn" là một trong những bức tranh Đông Hồ được dùng trong dịp Tết. Chữ trên tranh đọc theo trình tự từ trên xuống, từ phải qua nhé.

PHÚC LỘC SONG TOÀN

Tranh ghi 4 chữ "phúc lộc song toàn" 福禄双全.
- phúc : điều may mắn, điều tốt lành được hưởng trong đời
- lộc : dị thể của chữ 祿 nghĩa là lộc, tài lộc, của trời ban, bổng lộc
- song : dị thể của chữ  nghĩa là đôi, cặp, 2 thứ
- toàn : toàn vẹn, đủ đầy.
Đây là câu chúc rằng có được cả phúc và lộc.

                                                                                             Ưng Chu 

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2025

PHÙNG KHÁNH, PHÙNG THĂNG, NHỮNG DỊCH GIẢ TÀI DANH MỘT THỜI - Đinh Yên Thảo


Ảnh: Ni sư Thích Nữ Trí Hải Phùng Khánh và Phùng Thăng (qua nét vẽ của họa sĩ Đinh Cường)

Lời tác giả:

Sau sự ra đi của thầy Tuệ Sỹ, tôi dành thời gian tìm đọc lại một số tác phẩm của vài bậc cao tăng và giáo sư tại viện đại học Vạn Hạnh, nơi tập trung nhiều trí thức lỗi lạc của miền Nam trước năm 1975, từ các bậc tu sĩ, giáo sư cho đến những sinh viên từng thụ huấn. Trong số các vị này là hai chị em dịch giả Phùng Khánh và Phùng Thăng với một vài dịch phẩm mà tôi đã từng đọc qua trước đây nhưng chưa biết nhiều về thân thế. Vậy là cất công quay ngược lại thời gian để tìm hiểu thêm về hai nữ lưu trí thức và tài ba này. Một số chi tiết tham khảo trong bài viết này được sử dụng từ ấn bản đặc biệt về Phùng Thăng trên Thư Quán Bản Thảo (số 59, tháng 3-2014) do nhà văn Trần Hoài Thư chủ trương cùng một số trang Phật học khác nhau.

NĂM NAY THÁNG CHẠP THIẾU – Trần Vấn Lệ



Năm nay Tết sớm lạ nha!  Con nít người già ngơ ngác Tân Niên!  Buồn, vui, đều thấy nhãn tiền: năm mươi năm cái Tết mình tha hương...
 
Hai Thế Kỷ...chẳng chi oan:  kẻ vui công tác, người mang vết bầm:  người lên như sóng triều dâng, người thì gậm nỗi hờn căm làm người...
 
Lắm người tu, nói "kệ thôi".  Nhà Thờ, Chùa vẫn những hồi chuông vang... Người tu ngó Tết, mơ màng, người không tu hứng hàng hàng lệ sa!
 
Xứ người, phố Tết phố hoa.  Người ta có lối, phần... ta có đường!  Cảnh kia là cảnh phố phường, sáng bình minh thắm, chiều hoàng hôn phai...
 
Người ta ai cũng là ai!  Trần ai cõi cát bụi bay cõi đời... Người già không thích rong chơi, trẻ con Tết chỉ ngày rồi cũng qua!
 
Đứa cháu Ngoại nói Ngoại à:  "Mùi nhang thơm quá, giống hoa ngoại trồng!  Ở đây có núi có sông, con lái xe, Ngoại với con vòng phố nha...".

*
Ngoại hôn cháu, Ngoại nhìn xa:  Quê Hương của Ngoại vẫn là Đại Dương...
 
                                                                                        Trần Vấn Lệ

SÁNG SỚM MỘT MÌNH – Đinh Hoa Lư


            

Chim hỡi bay về nơi đâu?
Đường xa nắng đã nhạt màu
Còn ai ở cuối trời sầu?
Nghe như ngại ngần đôi cánh mỏi...
                    (Nhạc Lê Tín Hương)
 
Mặt trời chưa lên cao. Thời khắc này tôi hay có cái thú ngồi một mình ở vườn sau chờ ánh dương lên. Hàng xóm còn im lìm trong giấc ngủ. Trong mấy lùm cam vườn bên cạnh, có tiếng vài con chim dậy sớm rời rạc gọi nhau. Ngoài đường thỉnh thoảng có vài chiếc xe đi làm sớm chạy vụt qua.
 

Tôi có thú vui tự chế ly cà phê theo kiểu cũ. Cách chế đơn giản chẳng cầu kỳ gì-nghĩa là tôi bỏ sữa đặc, xong bỏ cà phê phin y xưa không khác chút nào. Muốn giữ nóng tôi chỉ đặt ly cà phê vào giữa một ly nước nóng khác bao ngoài, vậy là xong.
 
Mùi cà phê này đánh thức khứu giác. Tôi không chọn cà phê hiện nay nhập từ Việt Nam do người ta bỏ thêm mùi thơm nhiều quá. Tôi chỉ ưa loại cà phê xay bình thường. Thị hiếu của tôi khiến tôi phải chọn loại cà phê sản xuất từ tiểu bang Louisiana, đó là thứ cà phê xay đóng hộp hiệu Du Monde. Nhớ đến Louisiana, trong tôi thoáng nhớ những người bạn ra đi trong chương trình HO.
 

EM HỠI – Thơ Phan Quỳ


   

Em về một thuở hồng hoang ấy,
Khúc nhạc tiêu dương bỗng dâng mùa,
Ta nghe hồn lặng chìm con sóng,
 Bóng nhỏ nghiêng nghiêng vạt nắng vừa.
                          
Em mang tình mộng vào nhân thế,
Trong cõi miên man những kiếm tìm.
Mắt chiều ngơ ngác nhìn đêm tối.
Ta về hiu quạnh nhói lên tim!
                           
Em đi đường cũ còn in dấu,
Ghềnh thác đa đoan trải gót mềm.
Mưa gió bao lần lên vai nhỏ,
Mơ chốn hiên ngoài chút nắng lên.
                         
Em hỡi, ngây thơ ngày tháng mộng,
Hao mòn tay với tuổi xanh xưa,
Ta mang trăn trở vào hư ảo,
Bên đời ai gọi để ai thưa ???

                                     Phan Quỳ

ĐỌC TẬP THƠ “EM PHÙ SA MÙA NƯỚC NỔI” CỦA NGUYỄN CẨM THY - Châu Thạch



Châu Thạch hân hạnh nhận được thi phẩm ''EM, PHÙ SA MÙA NƯỚC NỔI" của nhà thơ NGUYỄN CẨM THY, một thi phẩm tuyệt đẹp: ĐẸP NGƯỜI, ĐẸP SÁCH, ĐẸP THƠ. Mời quý vị bỏ vài phút đọc lời cảm nhận của Châu Thạch dưới đây để biết về một TÌNH YÊU MÙA NƯỚC NỔI mới lạ, yêu con người và yêu quê hương không đề cập đến sự thường tình như bờ tre, ruộng lúa và chùm khế ngọt mà bao nhà thơ xưa và nay đã viết:
 
Cầm tập thơ “Em Phù Sa Mùa Nước Nổi” của Nguyễn Cẩm Thy trên tay, lòng tôi cảm thấy vui ngay khi nhìn vào trang bìa có tên tác giả và tên quyển sách.
 

VÔ NGÔN – Thơ Lê Phước Sinh





Người Già
lượm Ve chai
vơ lầm ngọn Gió
thổi tung.
 
Lê Phước Sinh

Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2025

NĂM TỴ NÓI CHUYỆN RẮN - Đỗ Duy Ngọc



Trong 12 con giáp, tuổi Tỵ (con rắn) đứng hàng thứ sáu, tức nằm giữa. Theo tử vi, tuổi Tỵ - nếu sinh vào mùa đông thường có bản tính hiền lành, nếu sinh vào mùa hạ thì vui vẻ, sinh động. Bản chất của người tuổi Tỵ có nhiều tham vọng, có chí tiến thủ. Người tuổi này thường phù hợp với những công việc sáng tạo, cần sự thông minh. Đó là những con người sống có phong cách riêng, nhiệt tình trong công việc cùng với mọi người chung quanh. Tuy vậy, tuổi này rất nhạy cảm và hay ghen, cả nam lẫn nữ. Họ cũng là người luôn chủ động, có năng khiếu, can đảm và có ý chí. Những người cầm tinh con Rắn khá tự tin vào chính bản thân, thường họ không quan tâm người khác nghĩ gì. Họ có phong cách riêng, sống hào phóng lại kín đáo và nhiệt tình. Họ lại có tính thù dai, học được chữ nhẫn để chờ cơ hội báo thù.
Những đặc điểm đó người ta dựa vào các tính cách của loài rắn mà suy luận nên thực tế không hẳn là phổ biến. Bởi thế nên nói về con rắn sẽ chính xác hơn.

HẠ UY DI 夏威夷 – Ung Chu, theo Hán-Việt Thông Dụng

 

Hawaii (tiếng Hawaii: Hawaiʻi) ngoài cách phiên âm "Ha-oai" thì người Việt còn vay mượn tiếng Trung Quốc "Hạ Uy Di夏威夷. Đây là cách phiên âm dựa trên tiếng Quảng Đông "haa6 wai1 ji4" 夏威夷 (Jyutping), sau đó phổ biến sang các ngôn ngữ Trung Hoa khác, và người Việt chuyển âm thành Hán-Việt. Hawaii là lãnh thổ thuộc Hoa Kì, quần đảo này nằm giữa Thái Bình Dương rộng lớn.
Người Việt đã du nhập một loại nhạc cụ mà tên tiếng Anh là "lap steel guitar" hay "Hawaiian guitar", với cách chơi đặc trưng là để lên đùi. Người Việt gọi đó là đàn Hạ Uy Di hay "Hạ Uy cầm" 夏威琴. Cách gọi lược bớt âm tiết này ta đã gặp trong tên gọi "Tây Ban cầm" 西班琴 dựa trên tên "Tây Ban Nha" 西班牙.

                                                                                    Ung Chu
                                                                       Hán-Việt Thông Dụng

HƯƠNG THƠM TIÊN TỬ - Đinh Hoa Lư


           

Và một mình tôi chép dòng tâm tình tặng người chưa biết một lần.
Vì trong phút ấy, tôi một mình thì thầm, giờ đã gặp được nụ hoa nở về đêm...
                                                          (Hoa Nở Về Đêm - Mạnh Phát)
 
Bạch quỳnh chụp lúc 2 giờ sáng

Sáng sớm vừa ra vườn sau, bất giác tôi cảm thấy một mùi thơm rất lạ. Quả thật, có mùi thơm loài hoa nào đó làm khứu giác tôi chợt 'choàng tỉnh giấc'. Có thể vườn hàng xóm đang có cây hoa quý nào đó? Tôi cố nhìn quanh, ngửi theo hướng gió...
 
Ôi thôi đúng rồi! Có hai đóa quỳnh trắng lần đầu tiên vừa nở trong đêm. Hai đóa bạch quỳnh này đang xen với mấy đóa hồng quỳnh nở hai hôm trước. Mùi thơm lạ này chắc chắn tỏa ra từ hai đóa bạch quỳnh vừa nở, ngay cái chậu gần chỗ tôi đứng, thế mà tôi chẳng hề hay.
 
 
Chuyện là mấy bữa nay tôi cứ xun xoe, mừng rỡ, chụp hình, khoe với bạn hữu mấy đóa hồng quỳnh do nó quá đẹp. Thú thật với quý bạn, hoa quỳnh đỏ đẹp thì đẹp thật nhưng tôi chẳng khám phá ra mùi hương nào cả. Giờ phút này, xin thưa thật đây là lần đầu tiên kẻ viết bài này mới khám phá ra một hương thơm tuyệt diệu từ mấy đóa bạch quỳnh vừa nở trong đêm. Trồng quỳnh ba năm, giờ này tôi mới có dịp thưởng thức được sắc hương bạch quỳnh.
 

Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2025

NĂM ẤT TỴ 2025 CÓ HAI NGÀY LẬP XUÂN? - An Nhiên

Một trong những điều thú vị về năm Ất Tỵ 2025 là chúng ta có 2 lần đón ngày Lập xuân; đây cũng là khởi đầu cho chuỗi 8 năm liền - trong tháng Chạp - không có ngày 30 Tết.
 

Lập xuân là ngày tính theo lịch dương thường rơi vào ngày 3 hoặc ngày 4 tháng 2 dương lịch hàng năm. Trong khi đó lịch âm tính theo chu kỳ của Mặt trăng, mỗi tháng có 29 hoặc 30 ngày. Một năm Âm lịch thường sẽ có số ngày là 354 hoặc 355 ngày, ngắn hơn so với năm Dương lịch với 365 ngày. Chính vì thế cứ vài năm âm lịch sẽ lại có một năm có tháng nhuận.
 
Năm Ất Tỵ 2025 nhuận vào tháng 6 nên số ngày của năm này là 384 ngày (từ ngày 29/1/2025 đến 16/2/2026 Dương lịch), dài hơn năm bình thường 30 ngày.
 

NĂM MƯƠI NĂM BUỒN BUỒN NÓI NHẢM – Trần Vấn Lệ



Cali nắng chang chang, chim kêu vang thành phố!  Lạnh, đêm hoa không nở, ngày thì nắng, than thôi!
 
... mà đây, đó, đều vui.  Gặp nhau, cười, Năm Mới.  Nắng giống như lò sưởi... không phải trả tiền gaz!
 
Mỗi ngày, một ngày qua... kệ nó mà, mưa, nắng!  Có nhiều người thầm lặng, sống mong ngày qua ngày...
 
Chuyện đời mây bóng mây... Chân mày không ai nhíu!  Chẳng gì ta không hiểu, chuyện đời mây bóng mây!
 
*
Bài thơ tôi hôm nay bóng hạc vàng thiên cổ bay qua rồi trời nhớ nhường phù vân, bạch vân!
 
Nhiều, ít, có bâng khuâng, mơ màng cho có vẻ, thèm chứ ai có ghé nhẹ lòng như khói sương...
 
Thèm chứ những nụ hôn nở trong thời cổ tích, cam đành đời tịch mịch... không ngờ năm mươi năm!
 
                                                                                       Trần Vấn Lệ

TRẮC ẨN 惻隱 - Theo Ngày ngày viết chữ



Trắc ẩn, chữ Hán viết là
惻隱, trong đó:
Trắc là thương xót, xót xa, trong chữ Hán có bộ tâm () nghĩa là trái tim – chỉ cảm xúc của con người. Xin phân biệt với các chữ trắc mà ta thường gặp hơn như trắc () trong bằng trắc hay trắc () trong trắc nghiệm, bất trắc,...
Ẩn là giấu kín, che đậy, trái nghĩa với hiện (), như ẩn danh (隱名), bí ẩn (秘隱), tiềm ẩn (潛隱). Ngoài ra, theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, “ẩn” còn một nét nghĩa khác là xót thương. Sách giảng về nét nghĩa này như sau: “Xót, nghĩ. Như Mạnh tử 孟子 nói 'Vương nhược ẩn kì vô tội nhi tựu tử địa' 王若隱其無罪而就死地 nhà vua nếu xót nghĩ đến kẻ không có tội mà tới chỗ chết” *. Nét nghĩa xót thương này chính là nét nghĩa trong “trắc ẩn”.
 
Trắc ẩn hiểu chung là thương xót, trong đó cả “trắc” và “ẩn” đều có nghĩa là thương xót, xót xa, đau lòng. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “trong lòng thương xót không nỡ làm khổ ai hay trông thấy sự khổ của người khác gọi là trắc ẩn 惻隱. Hán Việt Từ điển Từ nguyên của Bửu Kế cũng giảng “ẩn” trong trắc ẩn nghĩa là đau đớn, thương xót. Tương tự, Đại tự điển Hán Việt Hán ngữ cổ và hiện đại của Trần Văn Chánh giảng “ẩn” trong trắc ẩn nghĩa là đau lòng, thương xót. Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên giảng trắc ẩn là (tình cảm) thương xót.
 
Có thể vì nét nghĩa giấu kín, che đậy của “ẩn” quá phổ biến, trong khi nét nghĩa thương xót của “ẩn” ít được biết đến nên đôi khi chúng ta, cũng như có trang từ điển online nhầm trắc ẩn là “thương xót một cách kín đáo trong lòng”. Thật ra không cần kín đáo, lòng thương xót mà bày tỏ ra, thể hiện ra (qua ánh mắt, qua vẻ mặt, qua hành động,...) thì vẫn là lòng trắc ẩn.

........

* Đoạn này nằm trong Lương Huệ Vương thượng (梁惠王上) của sách Mạnh Tử (孟子).
 
                                                                 Theo Ngày ngày viết chữ
*
Nguồn:
https://www.facebook.com/ngayngayvietchufanpage

Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2025

TIẾNG CHUÔNG GIAO THỪA CHÙA THIÊN MỤ - Trần Kiêm Đoàn



Có những hồi chuông chùa nghe một đời chưa dứt tiếng ngân.
Tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân trong tâm tôi gần tới 80 năm vẫn còn vang vọng.
Đây chẳng phải là hồi chuông chùa Thiếu Lâm tự trong chuyện võ hiệp Kim Dung hay tiếng hát "chẳng phải là hoa, chẳng phải sương" của nhân vật Gia Gia trong tiểu thuyết ngôn tình của Quỳnh Dao vừa mới mất mà là tiếng chuông ngân sống thực đời thường.
 

MÙA XUÂN KHÔNG EM – Thơ Khê Kinh Kha


   

không có em mùa Xuân buồn tức tùi
phố ngậm ngùi vì vắng bước chân em
nụ mai vàng tủi hờn không buồn nở
hay lòng anh khép kín vì không em?
 
không có em mùa Xuân cô đơn lắm
mưa đầy trời hay nước mắt trong anh
hoa Cúc khô hay hồn anh đang úa
mấy Xuân rồi mình xa cách đây em?
 
không có em mùa Xuân chỉ một mình
em bây giờ có còn nhớ đến anh
em bây giờ có ngồi bên song cửa
mà gọi tên anh suốt cả đêm?
 
không có em mùa Xuân tội nghiệp qúa
gío lạnh đấy trong ngưởng hồn tôi đây
em yêu hỡi Xuân này em có tủi
có bao giờ em khóc vì xa tôi?
 
không có em mùa Xuân như muốn khóc
núi sông hờn năm tháng cũng sầu thương
anh âm thầm nhặt từng cánh mai úa
Ép vào môi để nhớ hương em nồng
 
Không có em mùa Xuân thêm lặng lẽ
lặng lẽ riêng anh với nỗi nhớ đầy
trời hỡi từ nay mai vàng không nở
đời quạnh hiu vì tình vẫn ngàn khơi
 
                                   khe kinh kha
                                (Michigan1972)

TẾT ẤM QUÊ NHÀ, ĐÊM GIAO THỪA – Thơ Tịnh Bình


   


TẾT ẤM QUÊ NHÀ
 
Bâng khuâng theo khói chiều đông
Cánh đồng ngậm ngùi sương trắng
Bay lên hồn rơm vía rạ
Thương sao mùi khói đốt đồng
 
Tháng Chạp bâng quơ lòng nhớ
Những mùa thơ ấu trôi xa
Bập bùng lửa hồng bếp mẹ
Hương xuân mứt bí mứt dừa
 
Vườn trưa vàng bông hoa mướp
Kiệu phơi dưa cải Tết về
Vạn thọ chờ bung cánh mỏng
Lung linh sắc nắng quê nhà
 
Gió sớm nghe từng đợt lạnh
Lòng sao ấm áp lạ thường
Nhà xưa dáng cha bóng mẹ
Con về ngõ nhỏ mà thương...
 

Thứ Năm, 16 tháng 1, 2025

GHỮ ĐẠI 大 - Thư Viện Huệ Quang



Chữ Đại  là một chữ thuộc nhóm chữ Tượng hình. Được ghi nhận (xuất hiện) sớm nhất ở thời Giáp cốt văn.
Chữ  có hình dáng giống một người đứng chính diện, hai tay buông xuống, nghĩa gốc của chữ này là người trưởng thành. Đối lập là chữ , chữ tử có hình dáng đứa trẻ vung hai tay chơi đùa. Vì trưởng thành có tuổi tác lớn hơn trẻ nhỏ, cho nên chữ “đại” được mở rộng nghĩa chỉ lớn lao, to lớn.
 
Trong sách Tìm về cội nguồn chữ Hán có giải thích chữ “đại”  như sau: Giống hình người đang đứng. Người cổ đại đã coi loài người là “vạn vật chi linh” là vĩ đại, cho nên người ta dùng hình ảnh này chỉ nghĩa “to”. [1]
 
Ngoài ra, sách Thuyết văn giải tự có giải thích chữ  rằng:

天大,地大,人亦大。故大象人形.

Tạm dịch: 

Trời lớn, đất lớn, con người cũng lớn.

Cho nên, hình dáng chữ đại mô tả dáng vẻ con người. [2]
 
Đồng thời, chữ đại còn có một số nghĩa khác như: Tiếng nói tôn trọng người. Như khen sự trước tác của người là đại tác 大作 nghĩa là văn chương sách vở làm ra to tát rộng lớn lắm. Các bậc trên như cha, anh, quan trưởng cũng gọi là đại nhân 大人. Anh lớn nhất gọi là đại .