BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2024

LỜI HẸN ƯỚC – Thơ Nguyên Lạc


  

 
LỜI HẸN ƯỚC
 
Em còn trẻ bao mộng đời diễm tuyệt
Bước tung tăng chân sáo ngôi trường
Rạng rỡ cười đường phượng thân thương
Những hò hẹn nồng nàn góc phố
 
Em còn trẻ đâu biết đời quá dữ!
Đâu biết đời đầy những khổ đau
Đâu biết người không dung thứ nhau
Toàn lừa lọc mưu toan ám hại
 
Đáng đời chưa ai bảo em khờ dại!
Tin lời tên lãng tử như anh
Để trách hờn nước mắt lưng tròng
Để chờ đợi quắt quay chiều phố vắng
 
Để đếm bước rã rời cay đắng
Đường quạnh hiu dài lắm phải không em?
Đáng đời chưa ai bảo yêu lầm!
Tên lính trận hoang tàn bạt mạng
 
*
Mộng rất nhỏ của người cô lữ
Của kiếp đời với bao nỗi tan hoang
Chiều tha hương se sắt lệ điêu tàn
Chạm phiến nhớ tận cùng miền ký ức!
 
Nhớ một thuở... nhớ một lời hẹn ước
Nhớ xót xa, nhớ dằn vặt riêng mình!
"Tháng ba gãy súng" [*]
Một kiếp điêu linh!
Em đâu biết, chắc em đâu biết?!
 
Có một người sống vật vờ như chết!
Trong thảm cùng địa ngục trần ai
Uất hận trong lòng bao nỗi đắng cay
Những đêm dài cắn môi thương nhớ!
 
Mười năm có đủ dài không hở?
Dã nhân trở về từ trại thảm rừng sâu!
Để thấy đời tan tác bể dâu
Cùng nỗi vô vọng kiếm tìm!
Dáng ai nào thấy!
 
Cũng phố xưa
Cũng con đường ngày ấy
Đâu những hẹn hò hờn giận em tôi?
Đâu quán thân quen?
Khúc nhạc tình "uống ngọt đôi môi"? [**]
Thôi giã biệt "quê hương tan rã"! [***]

*
Phố lạ. Tháng Tư
có người rưng rức nhớ!
Dáng ngây thơ hờn dỗi thuở nào
Em dại khờ nên tin tên lãng tử
Đáng đời em đừng trách tại sao?
 
Đáng đời tôi một tên lính ngụy!
Thất chí lưu vong, nuối tiếc cuộc hẹn nào
Bao năm rồi sao vẫn mãi thương đau?
Sao vẫn mãi đoạn đòi lời hẹn ước?!
 
Lời hẹn ước!
Em ơi lời hẹn ước!
 
                                           Nguyên Lạc
...................
 
[*] Tên sách "Tháng Ba Gãy Súng" - hồi ký Cao Xuân Huy: Ghi lại cuộc "di tản chiến thuật" của các người lính Thủy Quân Lục Chiến (VNCH) tháng 3, 1975 tại cửa biển Thuận An - Thừa Thiên Huế. Ngoài một số chết, đa số các TQLC còn lại bị bắt làm tù binh, rồi vào các trại "cải tạo" sau Tháng Tư.
[**] "Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt"- Trả Lại Em Yêu, Phạm Duy
[***] Quê hương tan rã (Things fall apart): Tên quyển tiểu thuyết của Chinua Achebe - Hoài Khanh và Nguyễn Hiến Lê dịch sang tiếng Việt.

Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2024

DANH CA THANH LAN, TÌNH DUYÊN LẬN ĐẬN – Long Đàng



Danh ca Thanh Lan là một trong những nghệ sĩ hiếm hoi ở thập niên 60 thành công vượt trội ở cả 3 lĩnh vực: âm nhạc, điện ảnh và sân khấu. Tuy nhiên, chuyện tình duyên của bà lại không ít truân chuyên.
 
Danh ca Thanh Lan tên thật là Phạm Thái Thanh Lan, sinh năm 1948 tại thành phố Vinh, Nghệ An. Vào năm 9 tuổi, bà được học piano với các sơ ở trường Saint Paul, sau đó được vợ nhạc sĩ Thẩm Oánh và nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi hướng dẫn. Khi còn là nữ sinh của trường Marie Curie, Thanh Lan đã hát trong một số ban nhạc như: ban nhạc Việt Nhi của nhạc sĩ Nguyễn Đức, ban nhạc sinh viên Hải Âu của nhạc sĩ Lê Hựu Hà, sau đó gia nhập đoàn văn nghệ học sinh - sinh viên Nguồn Sống…

BÀI THƠ QUÊN ĐẶT TỰA – Trần Vấn Lệ



Cơn bão đi đường dài, mới một ngày... còn bão!  Người mặc thêm cái áo... bão thì run ngoài sân!
 
Suốt tuần này phân vân:  "Sao bão gì kỳ cục?  Thường bay qua thoáng chốc hốt hết cả của đời...".
 
Hỏi để rồi thầm cười:  "Chắc con người gieo gió... thay vì đã gieo lúa?  Trăm đàng lỗi tại ta?".
 
Không thấy ai cười xòa.  Bão và mình độc thoại!  Thơ gì như lời nói!  Nói một mình.  Trống trơn!
 
Buổi sáng như chiều hôm.  Buồn tàn từng điếu thuốc.  Gió nhẹ mà ngang ngược.  Mưa tàn từng đóa hoa...
 
Một ngày đã trôi qua.  Hai, ba, bốn... ngày nữa, tháng Tư càng thêm nhớ tháng Bốn tờ lịch xưa...
 
Không ai không xác xơ!  Hồi đó không có bão, chỉ có quần có áo rách te tua te tua...
 
Tổng Thống Thiệu chịu thua, đêm hăm mốt từ chức.  Trần Văn Hương bật khóc:  Hạnh Phúc hay gì đây? (*)
 
Bão đang qua, cuộn mây.  Tháng Bốn ngày Lịch Sử... nó tới với mồi nhử:  Thống Nhất và Thái Hòa...
 
Người cùng thịt cùng da, người cùng chan nước mắt, người thì thật hạnh phúc, người thì ôi còn gì...
 
Bão ơi cứ qua đi... Cứ qua đi chầm chậm!  Người thành chuột gậm nhấm Nỗi Buồn Thật Tự Nhiên!
 
*
 
Bài thơ này tôi quên đặt cho nó cái tựa.  Nãy giờ tôi bên cửa nhìn mưa bay mưa bay... 
                                                                                     Trần Vấn Lệ

(*) Trần Văn Hương, Phó Tổng Thống, lên thay Nguyễn Văn Thiệu, tối 21-4-1975, theo đúng Hiến Pháp.  Trần Văn Hương có hai người con, Trần Văn Dõi, Cán Bộ Đặc Công Chủ Chốt bên Mặt Trận Giải Phóng hứa sẽ về Sài Gòn thăm Cha ngay! Đứa con thứ hai là Trần Văn Dĩnh, Trung Tá VNCH, sĩ quan tùy viên cho Cha.  Chiều 28-4-1975, bàn giao quyền hành cho Đại Tướng Dương Văn Mình, Trần Văn Hương ân cần dặn bảo: "Tôi mong Đại Tướng không để Sài Gòn Chợ Lớn thành một Biển Máu!". Ngày 30-4-1975, đến nhẹ nhàng.  Trần Văn Hương nằm nhà, 262 Phan Thanh Giản Sài Gòn, Hai Dõi đến thăm Cha buổi trưa... Lịch sử đi qua những trang mới.  Chuyện cũ xóa nhòa...

MỘT LỜI CẢM ƠN NGUYÊN SA - Nguyen Tuong Van



Nghe nói trong nghĩa trang Westminter, có một ngôi mộ lúc nào cũng tuyền một màu vàng tươi hoa cúc. Những đóa hoa cúc được chăm sóc thật kỹ, không khi nào thấy bóng dáng hoa héo nơi mộ chí. Người quá cố, lúc sinh thời, là người rất yêu hoa cúc vàng.  "Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc" là câu thơ ông đã viết trong bài thơ Áo Lụa Hà Đông. Ông là nhà thơ Nguyên Sa.
 

LỆ NỒNG MÔI KHÔ - Nhạc Khê Kinh Kha, Ánh Tuyết trình bày

    

               

Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2024

BÙI GIÁNG VÀ NÀNG HOA HẬU MỘT CON – Đông Kha,Tiểu Vũ


Ảnh: Nhà thơ Bùi Giáng và hoa hậu Công Thị Nghĩa
 
Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
 
Bùi Giáng là một hiện tượng thơ ca đặc biệt của Việt Nam. Trong di sản văn chương ông để lại cho hậu thế có những bài thơ, câu thơ lạ lùng, gợi lên nhiều suy nghĩ, ví dụ như hai câu thơ dưới đây:
 
"Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con"
 
Đọc lướt qua hai câu thơ trên, rất nhiều người nghĩ rằng đây là một "hiện tượng lạ", đôi mắt của ai đó đang làm hai việc khác nhau. Một con mắt thì khóc và con mắt còn lại không biết đang làm gì?
 
Tứ thơ này cũng đã được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hiểu theo cách của ông và viết thành nhạc "Con mắt còn lại":
 
"Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn em yêu thương, nhìn em thú dữ..."
 
Có thể hiểu nhạc của Trịnh Công Sơn là một sự ngẫu hứng dựa trên câu chữ chứ hoàn toàn không liên quan đến ý nghĩa thật trong câu thơ của cụ Bùi Giáng.

DANH CA THANH THÚY, NÀNG THƠ ĐẦU TIÊN CỦA TRỊNH CÔNG SƠN – Long Đàng

Thanh Thúy (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1943), tên khai sinh là Nguyễn Thị Thanh Thúy là một nữ ca sĩ thuộc Tân nhạc Việt Nam. Bà là một trong những ca sĩ có ảnh hưởng lớn nhất tới nền Tân Nhạc Việt Nam và đặc biệt là dòng Nhạc Vàng vì là giọng hát tiên phong thuở sơ khai của dòng nhạc này. Bà được biết đến qua các bài hát thuộc dòng nhạc vàng và nhạc tiền chiến như “Nửa đêm ngoài phố, Mưa nửa đêm, Phố buồn”,...Bà là một ca sĩ được khán giả đặt cho nhiều biệt danh nhất, như “Tiếng hát liêu trai, Tiếng hát lúc 0 giờ,Tiếng hát về khuya”, được một số nhạc sĩ viết tặng nhiều bài hát, như “Uớt mi,Thúy đã đi rồi, Được tin em lấy chồng”,...và làm bài thơ để tặng cô.


Danh ca là nàng thơ đầu tiên trong cuộc đời Trịnh Công Sơn, từng được mệnh danh là 'hoa hậu nghệ sĩ' thập niên 60

Nữ ca sĩ sở hữu giọng hát và nhan sắc trời ban

Danh ca Thanh Thúy, tên thật là Nguyễn Thị Thanh Thúy, sinh năm 1943 tại xứ Huế thơ mộng, trong một gia đình có 5 người con. Do người mẹ mắc bệnh hiểm nghèo nên cả nhà Thanh Thúy phải khăn gói vào Sài Gòn để chữa trị. Hoàn cảnh khó khăn, cả gia đình bà sống trong một căn phòng nhỏ trong con hẻm trên đường Cao Thắng.
Vào khoảng cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, Thanh Thúy bắt đầu đi hát. Giọng ca của nữ ca sĩ được xem là hiếm thấy với các đặc trưng như tính lưỡng tính, giọng rất sâu, dày, nặng, tối, chắc khỏe, đậm tính thổ và rền như tiếng đại hồng chung; quãng hát thoải mái nằm trên âm khu trung, trầm.

TÔI NHỚ THƯƠNG QUÁ NGOẠI HƯƠNG CAU CHOÀNG BƯỚC CHÂN – Trần Vấn Lệ




Ngay cùng trong Tiểu Bang mà nhiều nơi nóng khiếp, nhiều nơi lạnh liên tiếp, nhiều nơi thấy mát rồi!
 
Tại nó lớn quá thôi?  Hay tại trời chia rẽ?  Bỏ đây đi: lớp trẻ!  Chuyển tới đây:  lớp già!
 
Trẻ, già, có cách xa, tuổi và điều suy nghĩ.  Người làm sao trời thế...cho bõ ghét trần gian!
 
Bạn San Diego than:  "Anh ơi, đây nóng quá!". Tôi nói như vuốt má:  "Hồng đi cho mưa về!".
 
Đúng là chuyện bạn bè...Chuyện nhớ quê bớt bớt.  Nhiều người nhìn cỏ lợt thở dài như Nguyễn Du:
 
"Quê người cỏ lợt màu sương, đường đi thêm một bước đường một đau!".  Không ai biết làm sao nâng chiều tà bóng xế!
 
Bà Mẹ cho em bé ngậm vú trong parking, tôi dừng xe giật mình:  May mà trời hết lạnh.
 
Em bé mắt lóng lánh, mùi sữa bay thật thơm.
Bà Mẹ cúi xuống hôn tóc con, tình quá đỗi!
 
Tôi nhớ thương quá Ngoại hương cau choàng bước chân...Quê mình nồng nàn Xuân, bốn chín năm ai biết?
 
                                                                                        Trần Vấn Lệ

LÊN NON, NHÀ XƯA – Thơ Tịnh Bình


  
 

LÊN NON
 
Mệt nhoài lên đỉnh phù vân
Một trời một đất chợt gần gụi nhau
Vốc mây đôi ngụm trắng phau
Này hoa này lá trăng sao mỉm cười
 
Nhủ lòng cõi tạm người ơi!
Đường mây lối mộng rong chơi tháng ngày
Duyên trần ngoại cảnh đừng say
Miền sen tịnh độ thanh bai ta về
 
Hoàng hôn bảng lảng trời quê
Chim dang thêm cánh sơn khê mỏi mòn
Bước đời nặng trĩu đa đoan
Lệ mưa chớm tạnh lòng còn xót đau
 
Mệt nhoài nẻo thấp lối cao
Đỉnh trời bóng núi một màu hư vô
Biển người xao động nhấp nhô
Gánh gồng ước nguyện khổng lồ lên non...
 

LẠC BƯỚC - Nhạc Khê Kinh Kha, Ánh Tuyết trình bày

 

               

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2024

LẠC GIỮA THIÊN TAI - Thơ Lê Văn Trung


  

 
LẠC GIỮA THIÊN TAI
 
Phân Vân giữa ngã ba đường
Ta phương trời cũ - Người phương trời nào
Hỏi đất thấp - hỏi trời cao
Tìm đâu bãi biển nương dâu - bạc đầu
Tìm đâu? Mộng dữ? Chiêm bao?
Trăm năm trắng xóa niềm đau cõi người
Sống là một cuộc rong chơi
Vòng vây sinh tử nửa vơi nữa đầy
Để rồi lạc giữa thiên tai
Tìm đâu? Biển rộng? Sông dài? Tìm đâu?
Mình ta sóng vỗ chân cầu
Ngàn năm nước chảy một màu lãng quên.
 
                                           Lê Văn Trung
                                              15. 04. 24

THIÊN LÝ MÃ, THẾ ĐÓ, THIÊN TÀI... – Thơ Chu Vương Miện


  

 
THIÊN LÝ MÃ
 
Thuộc loài ngưạ Tứ nước Điền
Cực quí loại ngựa quân tử
Ngày rong ruổi ngàn dậm không mỏi
Nhưng lúc sa cơ biến thành ngựa cỏ
Ngựa hèn
Ngày kéo xe tối kéo mía
đêm ngủ cạnh chuồng trâu chuồng bò
không than cùng thở
nhục nhằn roi vọt
với kẻ ăn đứa ở
chuyện ngàn năm một thủa
Bá Nhạc vua coi tướng ngựa đi qua
Thương tiếc ngựa tài hoa
Bèn mang ngân lượng ra chuộc
Thiên lý mã như ngạc ngư trở về với biển cả
Người với ngựa chạy thong dong
Ngày đêm thoải chí
Ôi tri âm bắt gặp tri âm
-
Pollo local
quán con gà điên
con gà lôi
con gà rừng
ăn liền
-
Ăn hiền ở lành
Cơm cá và canh
Ăn ác ở ác
Tối ngày nơi sòng bài
Thua hết
-
Rượu trà gái
Ba thứ đều khoái
Bỗng dưng thành cụ Tú Xương
Uống & chơi mãi

ĐỌC “ĐẤT NƯỚC HÌNH TIA CHỚP” TRƯỜNG THI CỦA TRẦN MẠNH HẢO - Châu Thạch



1- Vì sao nhà thơ Trần Mạnh Hảo dùng tia chớp đề làm hình ảnh đại diện cho đất nước? Theo tôi có lẽ bởi vì tia chớp có vẻ đẹp hùng vĩ nhất, bởi vì tia chớp có năng lượng rất lớn, và bởi vì tia chớp có đường đi sáng rực và ngoằn ngoèo. Dùng hình ảnh tia chớp làm đại diện cho đất nước, Trần Manh Hảo muốn tôn vinh đất nước, muốn hóa hình đất nước vào hiện tượng thiên nhiên kỳ vỹ, để người đọc thấy đất nước qua 5 giác quan và qua tâm linh của mình.

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2024

TỨ TUYỆT THÁNG TƯ – Thơ Nguyên Lạc


  

 
TỨ TUYỆT THÁNG TƯ
 
1.
Thiên hạ ai người lòng lớn rộng?
Cùng ta uống cạn chén tha hương
Thanh xuân thất chí tiêu đại mộng
Thống hận cuồng ngâm khúc Hồ trường!
 
2.
"Hồ trường! Hồ trường! Biết rót về đâu?" [*]
Thất chí lưu vong độc ẩm ly sầu
Tri kỷ tri âm bốn phương tan tác
Đắng khúc thơ sầu khóc cuộc bể dâu!
 
3.
Nghiêng bầu rót nỗi thương đau
Ai người tri kỷ cạn sầu cùng ta?
Lệ ngân luân lạc chiều tà
Tháng Tư rưới rượu... xót xa Hồ trường
 
4.
Nâng ly thất chí Hồ trường
Đắng cay uống trọn đau thương kiếp người
Cố nhân giờ huyễn mộng thôi
Trùng dương cách biệt ta đời phiêu linh!
 
5.
Đã rồi một cuộc tang thương
Lật trang bại sử đoạn trường xót xa
Ai người tri kỷ cùng ta?
Hồ trường thống hận lệ nhòa tha hương!
 
6.
Thanh xuân tuổi mộng ngôi trường
Tháng Tư dâu bể đoạn trường còn đâu!
Hẹn nhau thôi nhé kiếp nào
Quê hương thăm thẳm nỗi đau nghìn trùng
 
7.
Huơ tay ôm cuộc phù trầm
Soi gương bóng nguyệt buồn căm mặt người
"Một phương trời" cố nhân ơi!
Rượu sầu độc ẩm ta đời cuồng si!
 
8.
Lạnh luồn cái lạnh lưu vong
Chạm ngăn ký ức vỡ mông mênh sầu!
Nghìn trùng xa cách còn đâu?
"Ngàn năm mây trắng trên đầu vẫn bay" [**]
 
                                             Nguyên Lạc
-----------

[*] Lời thơ/ ca Hồ trường - Nguyễn Bá Trác
[**] Hoàng Hạc lâu - Thôi Hiệu

MÓN ĂN NGẦU PÍN – La Thụy sưu tầm



Tra cứu từ điển Hán Việt, ta thấy:
NGẦU PÍN có âm Hán Việt là NGƯU TIÊN 牛鞭 : dương vật bò, trâu.
Ngầu pín còn gọi đơn giản là "pín" xuất phát là tiếng Quảng Đông, Trung Quốc (“ngầu” hay “ngưu”: tức là con trâu, con bò, “Pín” hay “tiên”) là thuật ngữ dùng để chỉ về bộ phận sinh dục của con bò đực và cũng là những món ăn được chế biến từ dương vật và tinh hoàn của một số động vật như bò, trâu

*
Âm Hán Việt của PÍN là TIÊN nghĩa là “cây roi”.
TIÊN  có âm Pinyin là /biān/ và âm Quảng Đông là là /bin1/, /Pín/ 
 
Có 2 câu thơ nói về “cây roi” của trạng nguyên trong đêm động phòng:
 
“Kim tiêu động phòng hoa chúc dạ,
Thí khán trạng nguyên nhất điều tiên”
 
今宵洞房花燭夜,
試看狀元一條鞭
(Bùi Độ hoàn đái 裴度還帶)
 
Đêm nay là đêm động phòng hoa chúc,
Thử xem "cây roi da" của trạng nguyên.
 
Như vậy NGƯU TIÊN 牛鞭 hay NGẦU PÍN chỉ “cây roi da” của trâu, bò hay chính là dương vật của loài thú này đó thôi.

Thứ Hai, 15 tháng 4, 2024

NHỮNG CHỮ CÓ LẼ DÙNG SAI TRONG NGÔN NGỮ VIỆT NAM?



1.- Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt

 *CHUNG CƯ.  Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt vì tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.
 
*KHẢ NĂNG. “Khả năng” là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng (capacité, capable) với khả dĩ (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người mà thôi.
 
*QUÁ TRÌNH. Quá là đã qua, trình là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi.” Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.
 
*HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pélé” “huyền thoại Maradona.”. Người có học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao nghe chướng tai? Huyền là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực. Thoại là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao gọi là huyền. Và 2 càu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng chũ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại.” Ông bà mình thường nói: “Dốt thì hay nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?”
 
*HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu 昬夫,昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy.
 

TÂN VỊ HỒ TRƯỜNG – Thơ Tường Linh


   
                  Nhà thơ Tường Linh


TÂN VỊ HỒ TRƯỜNG
(Tặng LM Thanh Lãng)
 
Gạo nhà CHU ta không ăn
Lộc nhà Chu ta không hưởng
Phổi no khí trời cao giọng hát nghêu ngao
Chen khúc hát ai ca lẫn tiếng gươm chiều CHIẾN QUỐC
Để mắt giai nhân sầu đằng đẳng ý XUÂN THU
 
Ôi ! Gái TRỮ LA về đâu
Nét đẹp nghìn xưa hiu hắt
Dãi lụa cuốn đài mây thơ níu nhạc
Không lãnh cung Tần sao cũng lạnh tần phi.
Xin lỗi người em cùng ta ngàn kiếp hẹn
Dang dỡ từ đầu phen tái ngộ mỗi chu kỳ
Như gió như sương như cách bèo bọt bể
Hỡi năm cung cung nào sầu bằng hai tiếng biệt ly
 
Tim ta mãi vì em rỉ máu
Bờ thu quạnh ngàn năm vết chân em còn dấu
Đôi gót son hằn trên núi khổ sông đau
Núi vò vỏ nhìn sông ăm ắp lệ
Bởi trái ngang nào sông núi lạnh lùng nhau
Ta lại nghêu ngao khúc ca người vọng quốc
Ngàn vạn cách tay tình ôm thác ngọc đèo châu
 
Ai giấu thánh thư sau cơn rừng rực lửa
Vách nứa thảo lư chê mắc áo khanh hầu
Ai vỗ cổ bồn khúc ca hay tiếng lệ
Sông VỊ đã qua mùa chờ vận buông câu
Đời vẫn trẻ hồn tự dưng buốt giá
Trời bốn phương mưa không loãng nổi men sầu
TÂN VỊ HỒ TRƯỜNG ta rót mời ai nhỉ
Hay chỉ mình ta lạnh buốt siết đêm sâu
 
                                                         Tường Linh
                                                               1965

DANH CA HOÀNG OANH – Long Đàng



Nữ danh ca đình đám một thời quyết không hát vũ trường, phòng trà dù được săn đón nồng nhiệt
Danh ca Hoàng Oanh được đánh giá là 1 trong 10 nữ ca sĩ có sức ảnh hưởng lớn tại Việt Nam trước năm 1975.
Danh ca Hoàng Oanh (tên thật là Huỳnh Kim Chi) sinh năm 1946 tại Mỹ Tho nhưng lớn lên tại Sài Gòn. Bà được cha dạy hát khi mới 5 tuổi. Đến năm 8 tuổi, bà lần đầu biểu diễn trên sân khấu ở Liên trường Võ khoa Thủ Đức với hai bản nhạc "Hương lúa miền Nam" và "Có một đàn chim".
Nghệ danh Hoàng Oanh được chính người cha đặt năm 1958 khi bà gia nhập ban thiếu nhi của nhạc sĩ Lê Đô. Ông đã lấy câu hát "Chờ tin thư chim hoàng oanh đưa/ Còn xa bay trong áng sương mờ" trong bài "Bản đàn xuân" của nhạc sĩ Lê Thương để đặt nghệ danh cho bà.
 
Nhờ giọng hát trời phú, kỹ thuật điêu liệu, Hoàng Oanh được công chúng mến mộ ngay trong những năm đầu đi hát. Bà liên tục được mời thu âm và biểu diễn. Ở thời hoàng kim, danh ca Hoàng Oanh ngự trị trên hầu khắp các sóng phát thanh và truyền hình. Bà chính là ca sĩ được mời thu âm nhiều nhất, với hơn 200 đĩa nhạc tính đến năm 1975, tại nhiều hãng đĩa khác nhau.
Điều đặc biệt là trong sự nghiệp của mình, Hoàng Oanh không biểu diễn tại các vũ trường và phòng trà, dù thời ấy đa phần nghệ sĩ đều làm điều này. Bà từng giải thích điều này như sau: "Hồi nhỏ, Oanh ở với ông cậu rất nghiêm khắc nên ông không cho Oanh hát phòng trà hay vũ trường, thỉnh thoảng chỉ cho hát đại nhạc hội mà thôi". Dù sớm nổi tiếng, nhưng bà vẫn tốt nghiệp Đại học Văn khoa Sài Gòn với bằng Cử nhân văn chương, sau đó mới dành toàn bộ sự nghiệp cho âm nhạc.
 
Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 đã từng so sánh Hoàng Oanh với Chế Linh để lột tả sự cao đẹp trong nhân cách của bà. Ông nói: "Hoàng Oanh thật là một con người trung hậu, nghĩa là cô nghĩ đến mình và cả đến người khác. Thêm một yếu tố quan trọng nữa là những cuộn băng, những đĩa hát, những CD, một khi cô đã phát hành cô đều lưu giữ lại và gìn giữ cẩn thận như đó là những đứa con tinh thần của cô.
Trong khi đó, ca sĩ Chế Linh thì lại khác, cuốn băng nào đã phát hành, những bài bản nào đã hát anh đều quên bẵng đi, giống như kiểu bán tiếng hát lời ca để làm thương mại mà trung tâm băng nhạc nào mời anh và khi "tiền đã trao và cháo đã múc" là anh vội quên ngay".
Không chỉ Bolero, Hoàng Oanh còn nổi bật ở tài năng đa dạng, khi hát được dân ca của tất cả các vùng miền đất nước, từ Bắc tới Nam. Ngoài ra, bà còn có giọng ngâm thơ thần sầu, đong đầy cảm xúc.
 
Chuyện tình đẹp của hai người nghệ sĩ
 
Về chuyện tình cảm, nữ danh ca lên xe hoa với nhạc sĩ Mai Châu vào năm 1972. Họ đã có một chuyện tình rất đẹp trước khi cưới 9 năm. Theo lời kể của nhạc sĩ Mai Châu, ông gặp nữ danh ca Hoàng Oanh lần đầu vào năm 1963, khi ông mới 18 tuổi và bà mới 17 tuổi. Thời điểm ấy, vì quá ái mộ người ca sĩ trẻ nên ông đã gửi thư cho Hoàng Oanh để bày tỏ nỗi lòng. Sau khi kết hôn, nữ danh ca và ông xã sống thuận hòa cho đến ngày nay, với một cuộc hôn nhân được nhiều người ngưỡng mộ.
 
Hoàng Oanh cùng chồng tới Mỹ định cư vào năm 1975. Ban đầu, bà sinh sống tại một thành phố gần New York, tiểu bang New Jersey, nhưng sau đó bà chuyển về tiểu bang California. Bà mở trung tâm ca nhạc và dành nhiều tâm huyết trong việc bảo tồn văn hóa cổ truyền, nuôi dưỡng tâm hồn Việt Nam trong cộng đồng người Việt.
 
                                                        Theo Dân Việt.vn Sa Long Đàng

NẦY EM - Thơ Phan Quỳ


   


NẦY EM
 
Nầy em một cuộc hồng trần
Vui câu chào đón, buồn lần tiễn đưa.
Tiếng cười lảnh lót hôm xưa
Vào trong giấc mộng đã vừa sang canh.
 
Nầy em chật hẹp thế nhân
Được hơn, thua thiệt chia phần trước sau.
Trách người một lẽ nông sâu
Trách ta thiếu đủ trọn câu so bì.
 
Nầy em còn mất nghĩa gì
Trăng sao chiếu sáng không vì trăng sao.
Hoa kia tươi đẹp biết bao
Chim muông reo hót để trao ân tình.
 
Thế gian muôn vạn sinh linh
Đưa vui góp mặt với mình với ta.
Dẫu buồn khi ánh nắng tà
Vẫn mong đêm hết để qua một ngày.
 
Dẫu đầy hay vơi cạn tay
Nầy em đừng tủi, đừng rầy trách ai.
Cuộc đời vay trả trả vay
Nợ duyên, duyên nợ hai vai gánh đầy.
 
Trao em một cuộc sum vầy
Tình sâu như mộng, tình dày như mơ.
Nầy em hãy nhớ đợi chờ
Hoa kia đã hé cũng vừa mùa trăng.
 
                                      Phan Quỳ