BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Bảy, 25 tháng 12, 2021

VŨ HOÀNG CHƯƠNG, LẠC LOÀI TRONG CÕI NHÂN SINH – Đỗ Trường


Thi sĩ Vũ Hoàng Chương


VŨ HOÀNG CHƯƠNG, LẠC LOÀI TRONG CÕI NHÂN SINH
                                                                                            Đỗ Trường

     (Viết nhân 100 năm ngày sinh của thi sĩ Vũ Hoàng Chương 1915-2015)


Tác giả Đỗ Trường

 Khi tiếng kêu đớn đau của thi sĩ Hàn Mặc Tử ở phương Nam chợt vụt tắt, thì vòm trời thi ca đất Việt dường như chỉ còn một Vũ Hoàng Chương đang quằn quại với những vết thương xẻ nát tâm hồn. Thì kỳ lạ thay, từ chính vết thương đang rỉ máu ấy lại vẽ ra một lối đi riêng, một con đường cho thi ca ngay từ buổi đầu đến với thơ mới. Nếu ai đó đã nói, thơ là tiếng nói hồn nhiên trong trẻo của tâm hồn, là tuổi thơ của loài người còn xót lại…thì quả thật với Vũ Hoàng Chương, nó lại là tiếng bi ai được cất lên từ nỗi đau rách nát của linh hồn. Chính vì vậy, thơ ông đã chạm đến tận cùng nỗi đau và sự cảm thông của con người. Để rồi thơ văn Vũ Hoàng Chương không chỉ đóng đinh vào lòng người, mà còn dán chặt tên tuổi ông vào nền văn học nước nhà. Ông viết nhiều thể loại, từ thơ, văn đến cả kịch thơ…Hơn hai chục tác phẩm tuy chưa hẳn đã là nhiều, nhưng chính tư tưởng, hình tượng nghệ thuật mới làm nên chân dung và sự nghiệp sáng tác đồ sộ Vũ Hoàng Chương.

BÀI THƠ MẸ VIỆT NAM MUÔN ĐỜI - Thơ Xuân Diệu

“Bài Thơ Mẹ Việt Nam Muôn Đời” Xuân Diệu viết về Mẹ Việt Nam. Tác giả đã dùng hết những hình ảnh đẹp để miêu tả Mẹ. Nào là “bầu trời trong xanh, sông cũng long lanh”, “vào một buổi trưa lòng con sao cảm xúc”, “con là sáo mẹ là ngàn vạn gió, mẹ là trời con là hạt sương rung”. Bài thơ này in trong tập “Tập Dưới Sao Vàng” (1949). Đây là một bài thơ hay hiếm hoi của Xuân Diệu sáng tác sau 1945 và xuất bản công khai, không khô cỡ “ngói” như những bài thơ “cách mạng” khác của Xuân Diệu (không kể những bài thơ tình làm “chui” của ông)


  
              Xuân Diệu qua thư pháp Lê Vũ


BÀI THƠ MẸ VIỆT NAM MUÔN ĐỜI 

Nắng trong xanh, trời cũng trong xanh.
Mây bay, trái giỡn trên cành.
Một con chim cánh vàng như nắng
Bay qua thông còn hát thanh thanh.
 
Thông ngâm, sông cũng long lanh,
Nước non rất đỗi an lành,
Một buổi trưa của Mẹ hoa giam ríu rít
trong mành thời gian.
 
Trưa hôm nay lòng con sao cảm xúc!
Răng thánh tha như hai lượt phím đàn;
Bờ bên mắt lệ đầy như chẩy trút,
Vì vui, vì mừng, vì ngợi Việt Nam.
 
Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ,
Giữa đáy trưa, trong lòng mẹ vô cùng.
Con là sáo, mẹ là ngàn vạn gió,
Mẹ là trời, con là hạt sương rung.
 
Sương uống mãi chẳng bao giờ hết sáng
Của trời cao chói lói mỗi triều ngày.
Sáo ca mãi lòng tre run choáng váng,
Gió vẫn đầy ngàn nội bốn phương bay.
 
Không nói được lời hương lên thỏ thẻ.
Không nói được trưa, không nói được ngày.
Không nói được lòng con tôn quý Mẹ,
Không nói được trời, không nói được mây.
 
Mẹ còn ngự mênh mông và diễm lệ,
Ánh linh lung soi đôi mắt dịu hiền.
Nước bông bống dỡn với trời se sẽ,
Canh la đà bên Mẹ vẫn làm duyên.
 
Núi cao ngất đứng hầu như trẻ nít,
Cuốn thân xanh dưới chân Mẹ biển nằm.
Sóng xếp nếp cảnh gia đình quấn quít,
Dờ con tầm hồi hộp mấy ngàn năm.
 
Miền Trung Bộ như vòng cung sắp bắn,
Dáng em Nam mềm mại chiếc chân giỏ,
Chị Bắc Bộ cánh quạt xoè tươi tắn:
Ba vẻ cùng biêng biếc một màu tơ.
 
Hồ sắc cốm hợp với đồng lá mạ,
Ao cá rô êm ả ngủ chờ sung,
Làng tre thầm điểm nhà vàng mái rạ:
Ôi những chiều quê, ôi những chiều hồng.
 
Quần xắn gối, chân nâu đi vặm vỡ;
Áo tứ thân hay theo nhịp gánh gồng;
Môi trầu thắm hạt na cười hớn hở;
Mẹ thái bình yêu những việc nhà nông.
 
Con chim hót, con bướm thì đập cánh,
Con cá bơi, con trâu lững lờ nhai,
Con nít chạy đuổi nhau cười nhí nhảnh,
Mẹ tươi vui ôm ấp cả trăm loài.
 
Việt Nam hỡi! ôi rừng vàng biển bạc!
Việt thanh thanh. Việt sắc sảo mặn mà,
Việt rộng mở như nụ cười nước Việt,
Việt muôn đời! con xin gửi bài ca.
 
                                    XUÂN DIỆU

Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2021

TÌNH THƠ – Cảm tác của Đức Hạnh

       Cảm ơn anh nhiều! 
       Mến chúc anh cùng gia quyến Noel an lành. 
       Năm mới 2022 – Hạnh phúc nha!

   

 
TÌNH THƠ
 [Cảm tác qua tấm hình]
 
Nhà thơ rạng rỡ tươi cười
Merry Christmas rạng ngời dung nhan
Bóng hình trông thật huy hoàng
Bồ câu vươn cánh rộn ràng mùa xuân
Chúc vườn thi tứ “Bâng Khuâng”
Nguồn thơ rộn rã tưng bừng bướm hoa
Tháng năm tình cảm đậm đà
Biết bao kỷ niệm nở hoa thắm tình…
 
                                      Đức Hạnh
                                      Noel 2021

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021

QUÊ HƯƠNG NỖI NHỚ - Thơ Nguyên Lạc


   


QUÊ HƯƠNG NỖI NHỚ
 
1.
Bao năm không về quê cũ
Nhớ xanh lúa trổ đòng đòng
Lam chiều sáo diều tuổi nhỏ
Kêu chiều chim vịt sầu mong!
 
Cố hương trong hồn vẫn mãi
Ngày đêm con nước lớn ròng
Hoa trôi một dòng tím thẫm
Thương ơi tình đó nhói lòng!
 
Em tôi giờ đây vẫn đợi?
Tình tôi còn nhớ hay không?
Sang sông sáo giờ đã vội?
Xuân thu người đã theo chồng?
 
Bao năm đời này vẫn nhớ
Dù giờ tóc nhuộm thời gian!
Tha hương tháng ngày cơm áo
Trong tôi tình vẫn rộn ràng!
 
Mai đây trở về chốn cũ
Tìm ai mỏng mảnh hình hài
Xuân xanh vẫn còn thắm mãi?
Hay còng lưng bạc tháng ngày?
 
Mai đây người về quê cũ
Bạc đầu vẫn mãi nỗi xưa
Lớn ròng tiếng khàn bìm bịp
"Không lời chèo chống mỏi mê" [*]
 
2.
Bao năm không về quê cũ
Nhớ ơi mùa gió chướng về
Tha hương từ ngày dâu bể
Bao năm chưa vẹn câu thề!
 
Chiều nay bên hè phố lạ
Tự dưng lòng bỗng nhớ quê
Nhớ ơi nhớ sao là nhớ
Về không, ta có nên về?
Nhớ thơ "Hồi Hương Ngẫu Hứng"
Sao lòng buồn tái buồn tê!
"Ra đi trẻ, già trở về
Tóc rụng, giọng quê không thay
Trẻ con lạ nhìn trố mắt
Cười hỏi: Ông đâu đến đây?" [**]
 
Ông này từ đâu đến đây!
Tìm ai mà đến nơi này!
Tìm ai... biết tìm ai hở?
Ta về để ngắm mây bay!
 
                                  Nguyên Lạc
 
.............
 
[*] Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.
                                                 (Ca dao)
 
[**] Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn, khách tòng hà xứ lai?
                      (Hạ Tri Chương)
 

MỪNG CHÚA GIÁNG SINH 2021 – Đức Hạnh và Thi Hữu


   

 
MỪNG CHÚA GIÁNG SINH 2021
[Khoán thủ thi]
 
MỪNG vui lễ hội cảnh an bình
CHÚA đã yêu người được chứng minh [1]
GIÁNG hạ nghèo nàn trong máng cỏ
SINH ra lạnh lẽo khổ muôn hình
CỨU nhân khỏi tội [2] dòng Thanh Tẩy [3]
ĐỘ thế khai nguồn lộc tái sinh
DƯƠNG thế tưng bừng lời chúc tụng
TRẦN gian cảm tạ Đấng khai tình…
 
Đức Hạnh
18 12 2021
 
[1] Đức Kitô đã vì yêu thương thế gian mang lấy xác phàm. Đức Kitô đã tự hiến thập giá cứu rỗi trần gian. Để trở nên lễ toàn thiêu, và chịu chết chỉ vì yêu, rồi phục sinh khơi nguồn ân phúc cho muôn người được sống.
[2] Tội Tổ Tông, hay còn gọi là Tội Nguyên Tổ
[3] Thanh Tẩy, hay còn gọi là rửa tội.
 
 
THƠ HỌA:

 
MỪNG CHÚA GIÁNG SINH HAI KHÔNG HAI MỘT
 [Dĩ đề vi thủ]
 
MỪNG lễ nguyện cầu nước thái bình
CHÚA hòa cuộc sống tỏa bình minh
GIÁNG ban Nhiệm tích nguồn cao cả
SINH hạ Ngôi Hai cảnh hữu hình
HAI nguyện nhân loài trên thế giới
KHÔNG còn bệnh dịch giữa nhân sinh
HAI mừng thánh thể ngời ân sủng
MỘT sự thương yêu thắm nghĩa tình.
 
Hạnh Trương
18 12 2021

 
THI CẢM NOEL 2021
(Thể: bát cú khoán thủ)
 
MỪNG Lễ Noel phụng thái bình
CHÚA ngời dương thế tỏa bình minh
GIÁNG hòa trăm họ dào hồng phúc
SINH khởi muôn hoa rộ sắc hình
CỨU giải chúng nhân, đằm hậu lộc
ĐỘ trì phước hạnh, ấm lai sinh
DƯƠNG gian mừng đón mùa vui hội
TRẦN giới ân sâu giữ vẹn tình!
 
Nguyễn Huy Khôi
18-12-2021

Thứ Tư, 22 tháng 12, 2021

CUỐI NĂM – Thơ Lê Phước Sinh


  
                    Nhà thơ Lê Phước Sinh

 
CUỐI NĂM
 
Rơi rớt như lá rụng mùa thu
mười hai tháng lao đao nghiêng ngửa
thời gian lãng đãng trôi qua cửa sổ
những đám mây buồn đen xám tố giông
Chỉ thờ ơ, chẳng cần nhớ thèm mong
Xuân hờ hững đong đưa thiếp lịch...
 
                               Lê Phước Sinh

ĂN THEO LỐI HUẾ - Bs Bùi Minh Đức




Lưu lạc qua xứ Hoa Kỳ, hàng ngày vẫn được gia đình cho ăn nhiều món Huế khác nhau, tôi đã tưởng văn hoá ẩm thực xứ Huế mình chắc chắn sẽ còn tồn tại mãi trên đất nước người ta. Tuy nhiên, vừa rồi được mời đi ăn đồ ăn Huế tại nhà của một con dân xứ Huế khác, tôi mới ngớ người ra khi chạm mặt với sự thật phũ phàng, khi nhận thức ra rằng văn hoá ẩm thực Huế tại xứ người đã có nhiều đổi thay nhiều hơn là mình tưởng.

ĂN CƠM CHƯA? - Truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc


Nhà văn Bình Nguyên Lộc

Bình Nguyên Lộc (7 tháng 3 năm 1914 – 7 tháng 3 năm 1987), tên thật là Tô Văn Tuấn, là một nhà văn lớn, nhà văn hóa Nam Bộ trong giai đoạn 1945-1975. Ngoài bút danh Bình Nguyên Lộc, ông còn có các bút danh Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn, Tôn Dzật Huân, Phóng Ngang, Phóng Dọc, Diên Quỳnh…

Bình Nguyên Lộc là một nhà văn lớn của Việt Nam, ông thuộc vào ba nhà văn đã sáng tác nhiều nhất của cả nước (Nguyễn Ngu Ý, trong Sống và viết với… Bình Nguyên Lộc, gọi ông là một trong tam kiệt bên cạnh Hồ Biểu Chánh và Lê Văn Trương). Theo những dữ liệu đã thu thập được, Bình Nguyên Lộc có khoảng 50 tiểu thuyết, 1.000 truyện ngắn và bốn quyển sách nghiên cứu, trong đó quyển Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam chỉ được in phần đầu, phần còn lại độ 800 trang viết tay coi như bị thất lạc.

Xin giới thiệu cùng quý bạn đọc truyện ngắn “ĂN CƠM CHƯA” trích trong tập truyện “KÝ THÁC” của nhà văn Bình Nguyên Lộc (BẾN NGHÉ xuất bản 1960)



 
Bà sơ rút nhiệt kế ra khỏi nách tôi, chăm chú đọc nhiệt độ, mặt lộ vẻ ngạc nhiên như không tin ở điều mà bà đã thấy. Bà dòm mặt tôi, đoạn đọc lại một lần nữa.
 
Tôi đang hồi hộp vì đoán rằng có chuyện không hay thì bà đã nhảy ra khỏi phòng, làm cho tôi hốt hoảng đến cực điểm.  Tôi mắc chứng thương hàn, sốt mê man mấy tuần nay, vừa tỉnh lại chứng kiến sự bối rối của con người áo đen bé loắt choắt ấy, làm tôi ngỡ là tôi sắp chết đến nơi.
 
Nhưng gương mặt tươi của bác sĩ Chaput hiện ra nơi khung cửa, giúp tôi an lòng lại ngay. Giờ ấy còn sớm quá, bác sĩ, chắc mới đến nhà thương, chưa kịp mặc áo choàng, còn mặc thường phục.
 

Thứ Ba, 21 tháng 12, 2021

CHÚA TIÊN NGUYỄN HOÀNG VỚI BÀI HỌC VƯỢT QUA HIỂM HỌA, DỰNG XÂY NGHIỆP LỚN - Nguyễn Hoàn

Nguồn:
https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=20325


Chúa Tiên Nguyễn Hoàng          
          

Kỷ niệm 455 Chúa Tiên Nguyễn Hoàng dựng nghiệp tại Quảng Trị (1558 - 2013)

Nguyễn Hoàng sinh ngày 28 tháng 8 năm 1525, tức ngày 10 tháng 8 năm Ất Dậu, mất ngày 20 tháng 7 năm 1613, tức ngày 3 tháng 6 năm Quý Sửu, thọ 89 tuổi, trong đó có 56 năm (1558 - 1613) làm trấn thủ Thuận Hoá rồi sau đó kiêm trấn thủ Quảng Nam. Trải 56 năm dựng nghiệp, Nguyễn Hoàng đã làm nên những công tích to lớn, hiển hách, xứng danh là vị chúa mở cõi đầu tiên của các chúa Nguyễn.

 

CHIỀU THU TÍM – Thơ Nguyên Lạc


   


CHIỀU THU TÍM
 
Giọt đắng nào rơi mà em tức tưởi?
Đâu phải cỏ cây anh cũng có trái tim sầu
Phiến gió chiều nay lay động nụ trúc đào
Rơi về phương ấy khúc ca dao buồn
 
Đâu phải cỏ cây anh cũng có trái tim buồn
Lệ đỏ lá thu không thăm thẳm
Nghe trong hồn vỡ bờ sóng động
Lạnh một dòng sầu nỗi tàn phai
 
Đúng là em chẳng phải là ai
Tà huy đổ bóng dài tóc xõa
Điệp khúc chiều tiếng ai nức nở
Đâu phải cỏ cây anh cũng là người!
 
Trầm khúc ru lời gió bên trời
Phương hướng nào chiếc lá em tôi?
Nhuộm thêm chi tím biếc hồn này?
Chiều thu tím phiến sầu thêm tím!
 
Thương khúc nhớ vườn thu áo tím
Nụ hôn mềm...
Hương sắc có phôi phai?
Anh vẫn nhớ em ơi màu áo tím
Tím rộn ràng
Tím ngất ngất thu nay!
 
                                   Nguyên Lạc
 

Thứ Hai, 20 tháng 12, 2021

ĐẤT NƯỚC MÌNH NGỘ QUÁ PHẢI KHÔNG ANH? – Thơ Trần Thị Lam

Bài thơ này được viết vào tháng 4-2016 nhân vụ việc cá chết dọc bờ biển một số tỉnh miền Trung sau nhiều ngày chưa rõ nguyên nhân và gây bức xúc trong dư luận xã hội. Bài thơ nhanh chóng được lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội chỉ sau vài ngày.

  


ĐẤT NƯỚC MÌNH NGỘ QUÁ PHẢI KHÔNG ANH?
 
Đất nước mình ngộ quá phải không anh?
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi.
 
Đất nước mình lạ quá phải không anh?
Những chiếc bánh chưng vô củng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỷ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…
 
Đất nước mình buồn quá phải không anh?
Biển Bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa
Đất nước mình thương quá phải không anh?
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
 
Di sản mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu.
Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh?
Anh không biết em làm sao biết được
 
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm…  Đất nước sẽ về đâu?
 
                                          Cô giáo Trần Thị Lam
                                                   (Hà Tĩnh)


 

NGUYỄN HOÀNG - NGÔI TRƯỜNG MẤT TÊN VÀ SỰ TƯỞNG NIỆM LẶNG LẼ - Lê Đức Dục



Cho dẫu dấu tích của buổi đầu chúa Nguyễn Hoàng mở cõi hay về sau, khi những vị vua yêu nước tiếp tục chọn Quảng Trị lập căn cứ kháng chiến, đã bị nhạt nhòa, thì trong tâm khảm con dân miền đất này vẫn ghi lòng tạc dạ niềm tri ân với tiền nhân. Một trong những niềm tưởng niệm ấy là ngôi trường trung học đầu tiên của tỉnh Quảng Trị được mang tên chúa : Trường trung học Nguyễn Hoàng.  Danh thơm của người mở cõi dành cho ngôi trường được vinh dự mang tên, tên trường nay cũng không còn.
 
Hiếm có ngôi trường nào đặc biệt như Trường Nguyễn Hoàng. Được một nhóm thân hào, nhân sĩ ở thị xã Quảng Trị lập ra vào năm 1951 là trường trung học tư thục, năm học tiếp theo được công nhận là trường công lập và đến niên khóa 1953-1954 mang tên Trường trung học Nguyễn Hoàng. Quảng Trị vốn là đất địa đầu giới tuyến, sau những tao loạn thời cuộc Trường Nguyễn Hoàng đã có lúc dời vào tận Hòa Khánh (Đà Nẵng) nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi.
 

Thứ Bảy, 18 tháng 12, 2021

KIM ĐỊNH: CUỘC ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG - Hồ Phú Hùng

Nguồn:
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/kim-dinh-cuoc-doi-va-tu-tuong.html
 
GS. triết gia, linh mục Kim Định (1915-1997)

Giáo sư Kim Định tên thật là Lương Kim Định, là triết gia, linh mục Công giáo. Sinh ngày 15/6/1915 tại địa phận Bùi Chu, làng Trung Thành, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Ông là con trai út trong gia đình, thân phụ mất từ khi ông mới một tháng tuổi. Nhờ công dưỡng dục và nhìn xa trông rộng của người mẹ hiền, ngay từ thưở còn nhỏ, ông được gửi vào chủng viện Bùi Chu.
 
Tại chủng viện Bùi Chu, ông được hưởng một nền giáo dục toàn diện, về đạo đức cũng như về học vấn. Với bản tính ham tìm tòi học hỏi, ngoài những môn học khác và ngôn ngữ La Tinh, ông đã tự học thêm chữ Nho và Pháp văn. Sau những năm tháng say mê và  miệt mài học tập, ông được bề trên phân công giảng dạy tiếng La Tinh tại Tiểu chủng viện Ninh Cường, Bùi Chu  từ năm 1937 đến năm 1939.
 
Từ năm 1939 đến năm 1943, ông học thần học tại Đại chủng viện Quần Phương, Bùi Chu và triết học tại Giáo hoàng Học viện Saint Albert le Grand, Paris. Năm 1943, sau khi tốt nghiệp triết học, ông được thụ phong linh mục và giảng dạy triết học tại Đại chủng viện Quần Phương, Bùi Chu đến năm 1946. Năm 1947, ông sang Pháp 10 năm để nghiên cứu về triết học, xã hội học và văn minh Pháp tại Institute Catholic de Paris. Trong quãng thời gian này, ông còn theo học về Nho giáo tại Institute des Hautes Études Chinoise (Viện Cao học Hán học).

Trong thời gian ở Paris, nhiều bạn bè người Pháp đã đặt ra những câu hỏi cho ông: “Việt Nam có triết lí không?”,“Các anh có nghĩ đến việc thiết lập một nền Thần học Việt Nam chăng?”… Vào thời điểm này, một số linh mục người Pháp cũng đưa ra vấn đề tìm hiểu và giải nghĩa Kinh Thánh theo tinh thần của của triết học Á Đông. Đại diện cho xu hướng này là linh mục Folliet thuộc dòng Oratorie. Sau này, trong bài Để tiến tới một nền Thần học Việt (Dân Chúa, 12/1982), ông đã kể lại lời phát biểu của linh mục Folliet viết trong cuốn Monsieur Pouget như sau: “Hiện nay người Âu Tây chưa hiểu đúng Kinh Thánh. Sách Thánh xuất phát từ Á Đông, phải do người Á Đông giải nghĩa thì mới mong đúng tinh thần của sách”.
 

TA VỀ MỘT BÓNG TRÊN ĐƯỜNG LỚN… - Thảo Dân

Chúng tôi hân hạnh giới thiệu bài viết của cô Thảo Dân, bình luận rất sâu sắc bài thơ Ta Về của Tô Thùy Yên. Càng ngạc nhiên biết cô là giáo viên miền Bắc, sinh năm 1974.
 


 
Xưa giờ, tôi vẫn tự nhận mình mê thơ Nam hơn thơ Bắc. Bởi lẽ, với riêng tôi, thơ là tiếng nói thốt lên tự đáy lòng, không cần phiên dịch, không cần triết lý, không cần gò bó trong những trúc trắc diễm lệ câu từ. Thơ càng chau chuốt, bóng bẩy thì, hình như, cái tình càng ơ hờ, nhạt nhẽo. Thơ cũng không phải nơi để gửi gắm triết lý. Làm việc đó, văn xuôi và triết học tốt hơn nhiều. Thơ để cảm, để yêu, để nơi trái tim gặp gỡ trái tim. Vậy mà có một ngoại lệ, nhà thơ tôi yêu thích trong âm thầm, khá lâu bền, lại là người được giới phê bình nhận xét “Người Nam nhưng mang hồn thơ Bắc”: Nhà thơ Tô Thùy Yên.

Thứ Năm, 16 tháng 12, 2021

CUỐN SÁCH ĐẦU TIÊN - Nguyễn Đức Tùng



Cuốn sách đầu tiên mà tôi đọc khi ở ngoài đất nước là một món quà. Tôi hoàn toàn không biết người gửi. Tôi tìm thấy nó dưới tấm thảm cũ góc nhà trong khu tạm giam gần thủ đô Bangkok. Tôi thức dậy trước khi trời sáng, không ngủ được, bồn chồn, cảm giác có vật cộm lên dưới gót chân. Đó là cuốn sách rách bìa nhưng bên trong còn tốt, giấy ố vàng nhưng chữ đọc được. Cuốn sách không nằm đó một mình, không nằm đó một cách cô độc, nó nằm chờ ở đó như người bạn chờ người bạn. Cuốn sách như tác phẩm nghệ thuật được một nghệ sĩ để lại trên đường đi, vì quá nặng, hay cố tình để lại cho người đến sau. Cuốn sách ấy như một nhân vật, không yêu ai, không phụ ai, không chú ý đến người nào, nằm im lặng ở đó nhưng đã học quá nhiều điều từ những năm tháng tối tăm, biết bao người đi qua, dừng lại, nằm xuống, nằm xuống mãi, không ai nhìn thấy vì nó nằm ở chỗ lõm sâu nhất của sàn xi măng lạnh lẽo. Cuốn sách không được phê bình, không được mang tới, kiên nhẫn như tác phẩm vĩ đại, như kho tàng chôn giấu kỹ, là vật duy nhất còn sống sót dưới đống gạch đá của ngôi nhà tan nát vì chiến tranh. Nó ở đó, lưu giữ ký ức của loài người, sự sinh thành các tính cách, tham lam và ích kỷ, cao thượng và hy sinh, dằng dặc nỗi buồn của tình yêu của ba người đàn ông.
 

Thứ Tư, 15 tháng 12, 2021

CHIÊM BAO TRÊN BIỂN – Thơ Trần Mai Ngân


   

 
CHIÊM BAO TRÊN BIỂN
 
Chiếc tàu lênh đênh trên biển
Tôi mơ màng những chiêm bao…
 
Có người thương gia chốt mua đất lao xao
Ở khu nhà nghèo nằm trong quy hoạch
Giá rẻ hời phân lô khấm khá
Đất của ông bà đã đổ mồ hôi
 
Chiêm bao có tiếng cằn nhằn thúc hối
Bên đầu dây kia người khất nợ khóc than
Giọng lạnh lùng xé nát tan hoang
Một quen biết một thân tình bè bạn...
 
Chiêm bao kể về chàng trai trẻ
Bỏ thị trấn cùng mối tình chớm nở
Lên khu phức hợp học chia bài ở casino
Người yêu buồn khóc rồi lệ cũng sẽ khô…
 
Chiêm bao ngọt ngào giọng ru của mẹ
Hòa tiếng sóng buồn xa vắng mênh mông
Nhịp điệu sầu của sắc sắc không không
Hạnh phúc ở cuối chân trời xa lắc…
 
Chiêm bao hỗn độn mớ bòng bong chát đắng
Của vị đời mặn nhạt chua cay
Tôi choàng tỉnh giữa biển trời với cơn say
Hụt hơi chóng mặt và lẫn buồn nôn bởi… sóng!
 
                                                   Trần Mai Ngân