ĐINH
CƯỜNG
Tên
thật là Đinh Văn Cường, sinh năm 1939 tại Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Tốt
nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế và Sư Phạm Hội Hoạ Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài
Gòn.
Uỷ
viên Kiểm soát Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam.
Giảng
dạy bộ môn Hội họa ở các trường Nữ Trung Học Đồng Khánh Huế và Cao Đẳng Mỹ Thuật
Huế.
Định
cư ở Mỹ từ 1989, hiện sống ở thị trấn Burke, bang Virginia.
Đinh
Cường đã có hơn 20 cuộc triển lãm tại Việt Nam
và ngoài nước như Pháp, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Brésil, Tunisie, Ấn Độ,
Singapore.
Sách
đã xuất bản:
Cào
lá ngoài sân đêm, thơ, Thư Ấn Quán Hoa Kỳ 2014
Tôi
về đứng ngẩn ngơ, thơ, Quán Văn Sài Gòn 2014
Đi
Vào Cõi Tạo Hình I, tiểu luận hội hoạ, Văn Mới California 2015
NGUYỄN
ĐỨC SƠN - NGỌN LỬA TỊCH MỊCH
Thiệp ơi, đọc tháng Tư, “nhớ về Saigon” của bạn trên
blog Nguyễn Xuân Hoàng và bạn hữu… bạn nhắc ở cuối bài, tháng tư vọng lên câu
chửi thề nổi tiếng của thi sĩ Sơn Núi làm tôi nhớ Nguyễn Đức Sơn hỗn danh Sơn
Núi quá, lật những trang trong quyển vở đã ố vàng, tìm lại những câu thơ mà Sơn
đã ghi trong đó, năm 1987, có câu chửi thề nổi tiếng (Ian Bùi đã dịch ra tiếng
Anh rất hay) ghi lại cho đúng như thế này:
Đụ
mẹ
Cây
bông
Hắn
không
Lao
động
Ai
trồng
Chật
chỗ
Mày
nhổ
Xem
sao
Máu
trào
Thiên
cổ
Và bài kế tiếp:
Bông
hồng
Mới
nở
Mắc
cở
Đời
hay
Hương
sắc
Ai
bày
Sáng
nay
Ta
chết
Từng câu hai chữ, chữ đầu viết hoa… Sơn Núi rất kỹ và
khó tánh, sai một chút là chàng ta chửi thề. Đọc hai bài trên, nhớ lại tập Du sỹ
Ca, tác phẩm thứ mười một của Nguyễn Đức Sơn, An Tiêm xuất bản năm 1973, có đoạn
gần cuối, trang 35:
Địa
cầu
Địa
cầu
Rồi
đây
Lụi
hụi
Tới
ngày
Quá
vui
Mày
tan
Thành
bụi
Tro
than
Mê
man
Mở
đùi
Ta
khụi
Kẻo
rủi
Một
mai
Ai
tới
Ai
lui
Ai
chùi
Vắng
lặng
Nguyễn Đức Sơn và Phượng với con trai 1987
mới thấy thi sĩ là kẻ tiên tri… nói như Rimbaud, địa cầu
như càng ngày càng nóng lên với bao nhiêu trận động đất vừa qua… Cuối tập, tác
giả viết: Bài vè này tưởng đã được hoàn tất
giữa một đêm rạng sáng ở nhà, trong một cái lò bánh mì đốt củi cũ mục bỏ hoang,
đột hứng, tác giả đã phóng đại triển khai thêm một nửa số câu, nằm viết trong
nhà đá lởm chởm, nhầy nhụa, chật cứng, bít bùng, chỗ giam của Quân Cảnh Tư Pháp
Bảo Lộc, khuya 25 tháng 8 năm 1972 lúc đã được hốt từ lao tỉnh qua.
Như vậy, câu chửi thề mà Thiệp nhớ, với Sơn là dạng một
bài vè ghi lại trong một hoàn cảnh đáng nguyền rủa, ngộp thở… lao động là vinh
quang.
Khi
thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối
chiều tà chỉ gặp bãi hoang sơ
Bước
lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe
nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân
rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn
rụng rời trước mặt bãi hư vô
Cùng học với thầy Nguyễn Đức Nhơn (thân sinh của Nguyễn
Đức Sơn) dạy Pháp văn và thầy Thạch Trung Giả dạy Việt văn, người thầy Sơn rất
kính nể.
Nguyễn Đức Sơn và mini honda
Trong thư gửi cha từ Blao đề ngày 19.8.1972 thay lời tựa
cho tập thơ Tịnh Khẩu: “…Bởi con mà có
cái tham vọng gì, con một thằng sống bằng lửa tịch mịch, bằng hơi lạnh thiên
thu. đến cả mộng mơ đích thực còn không có, hay chỉ có toàn là mộng không:
Sáng
mênh mông
Ta
đi thơ thẩn trong vườn hồng
Ô
bông, ồ mộng, ồ không.
Ba
không thấy sao, chính cái bọn tự cho mình là trượng phu, là kẻ sỹ, lại là bọn
người tha thiết nằm trong cái guồng máy vô tâm, thúc hối cái guồng máy đó nghiền
nát không những bao kẻ phiêu hốt mà luôn cả những kẻ nào còn mang trong người
chút xíu lẽ công bình còn sót lại với trời đất. Vả chăng, thanh minh, bày tỏ
cái gì nữa đối với cái thằng đàn ông đã lê tới và đã đi qua cái đỉnh tịch mịch
khốc liệt chưa từng thấy là con? Ôi cái giọng của con, cái giọng thơ văn con,
mà ngay cả một người đầy tâm huyết và khí phách với bản tính vô cùng thận trọng
là nhà văn hóa đầu bạc phơ Nguyễn Hiến Lê cũng cho là “khác cả thế hệ này nữa
vì cá tính quá đặc biệt”.
Bửu Ý trong một tự truyện đăng trên Văn năm 1973 đã viết
về Sơn là “hình ảnh của con tê giác, từ
tính tình đến cách ăn nói, dáng đi, Húc bừa về phía trước không kể thiệt hơn,
không tính hậu quả. Thêm thù và bớt bạn. Đơn độc quắc queo. Dã man nghiệt ngã.
Chỉ thong dong ở chốn không người: rừng và biển…’’
Thật vậy, không ai đánh đổi cả đời mình với rừng như
Sơn Núi. Sơn vẫn ở riết trên Phương Bối Am từ sau 1975 đến nay (Phương Bối Am
là một vùng đồi rộng ở Bảo Lộc từ Sài Gòn đi quốc lộ 20 lên Đà Lạt, qua cầu Đại
Lào, bên tay trái, đi sâu vào xã Lộc Châu tới con dốc dẫn lên một vùng đồi rộng
là Phương bối Am. Thầy Nhất Hạnh đã xây một thiền thất giữa đồi thông mênh
mông, thơ mộng ấy. Sau 1975, ngôi nhà bị sập, cả vùng đồi tan hoang, chỉ còn lại
cái bể cạn lớn, khô nước, trơ bốn vách tường xi măng). Sơn đã đưa gia đình lên
đó, che cái mái tranh, vách ván, cả nhà chui vào ở. Sơn, Phượng vợ Sơn cùng
chín đứa con, bảy trai hai gái: Thạch, Vân, Thảo, Thuỷ, Không, Lão, Yên, Phương
Bối, Tiểu Khê…
“Những
đứa trẻ lớn lên cũng hoang dại như núi rừng, không cách chi sinh sống đươc. nên
tất cả đều lần lượt được gửi vào nương náu nơi cửa chùa. Ngoại trừ Thạch đã có
cuộc sống riêng và cắt đứt liên hệ với gia đình, Thảo nằm kia từ lâu lắm, nấm mồ
chơ vơ trên ngọn đối yên ả mây bay. Vân từ chối cơ hội sang Pháp tu học, tạm
quay về để gom tất cả bốn người em trai, nuôi ăn học lại dưới một mái nhà tại
chân Phương Bối, trong đó Thuỷ đang theo học cao cấp Phật học tại Sài Gòn. Yên,
Không, Lão rời chùa về nhà theo thế học.”
(Mù hạ, về
Phương Bối – Hàm Anh)
Nguyễn Đức Sơn - Đinh Cường
(trước căn chòi NĐS 2005)
Năm 2005, tôi ghé thăm Sơn Núi. Trên đường lên Đà Lạt,
Sơn hẹn ở một quán cà phê quen thuộc bên đường quốc lộ gần cầu Đại Lào rồi đi
chiếc xe gắn máy cỡ nhỏ hướng dẫn về nhà. Bây giờ đường đi đã mở rộng, xe hơi
vào đến đậu ở chân đồi. Trưa im vắng giữa đồi thông xanh lao xao gió, chúng tôi
ngồi ăn mâm cơm chay cùng nhau trên nền xi măng cao bên hông căn chòi nhỏ Sơn ở
một mình… Nhà gỗ bên dốc trái là Phượng ở cùng hai cô con gái út Phương Bối,
Tiểu Khê, rất xinh đẹp, đang học trung học. Tôi còn gặp cháu Yên, người gầy cao
giống mẹ, bị chứng đau mắt nặng, ngồi trong bếp phụ mẹ làm cơm trưa đãi khách.
Một buổi trưa thật cảm động, với buồng chuối sứ Sơn chặt đem vào… khoe tài trồng
chuối, trồng mít của mình ngoài tài trồng cả rừng thông quanh Phương Bối, mà kể
lại là cả một câu chuyện dài… đầy máu và nước mắt về Sơn Núi …
Cũng vui là những năm gần đây, Sơn Núi đã chịu tiếp
các nhà báo, nhà làm phim để phỏng vấn, viết và quay phim về mình:“Sơn Núi” Lão du sĩ cuối cùng”, bài về
mỗi tuần một chân dung của Lê Quang Kết trên Thể Thao & Văn Hóa, số
49,18.6.2002 Trang Phóng sự & Ký sự báo Tuổi Trẻ ngày 6.7.2002 với bài của
Quốc Việt “Ẩn sĩ cuối Cùng và đồi thông
Phương Bối:…” Vừa nói lão vừa dẫn tôi lang thang tham quan đồi thông rộng xấp
xỉ 30 ha. của mình. Khoảng vài ngàn ngọn thông lớn nhỏ, nhiều cây cao đã 6 -7
mét. Nhưng rồi ngậm ngùi biết bao khi lão lần xuống triền đồi và chỉ cho tôi
xem hàng ngàn cây thông nhỏ với những lổ đất trống không xen kẽ khắp nơi. Tôi cứ
trồng xuống, nguời ta lại nhổ lên, rồi tôi lại trồng xuống… Kể về mình, lão đã
cười đến chảy nước mắt khi nói đến độc chiêu để bảo vệ thông. Cứ cây nào ra
cành đẹp là lão phéng ngay cành đó để chặn mấy tay vô tâm chỉ vì một cành ưng ý
mà hạ luôn cả cây. Rồi gần đến mùa Noel lão sẽ châm lửa đốt rừng thông lớn của
mình, do thông lớn gặp than lửa sẽ không chết mà càng cao tốt thêm trong khi những
cành bên dưới sẽ xấu đi…”
Phượng - Đinh Cường (Phương Bối 2005)
Phượng - Đinh Cường (Phương Bối 2005)
Sơn ký tặng tôi CD ghi lại Buổi giao lưu của đoàn phim
HTV về tác giả Nguyễn Đức Sơn với Hải Chuyên, người đẹp dẫn chương trình…, với tôi, thông với thơ là một. Trong núi thơ
có đồi thông. Trong đồi thông có núi thơ. Núi thơ là đồi thông. Đồi thông là
núi thơ. câu mà tôi ghi nhớ nhất của Sơn trong phần trả lời các câu hỏi… và
bài thơ Sơn ghi trên mặt CD:
Ngày
mai núi cũ tôi về
Dĩ
nhiên hạnh phúc tràn trề em ơi
Thơ
bay từ cổ ngút trời
Quanh
năm bảo đảm tuyệt vời nước mây
Cớ
sao đãng tử bậc thầy
Hỏi
ra từ đá tới cây lắc đầu
Sơn Núi, đãng tử bậc thầy đúng vậy, và nhắc đến bạn là
từ đá tới cây lắc đầu thật. Nhưng sao trong lòng tôi vẫn luôn nghĩ đến một người
bạn quý hiếm, đã đánh đổi cả cuộc đời mình cho Ông Nghệ Thuật, như lời bạn nói.
Đinh Cường
(1)
Nguyễn Đức Sơn sinh ngày 18 Nov.1937 tại làng Dư Khánh (Thanh Hải) gần bên bờ
biển Ninh Chữ tỉnh Bình Thuận. Học trung học Võ Tánh Nha Trang, Đại học Văn
Khoa Saigon 1967.
Đã
xuất bản 3 tập truyện ngắn Cát Bụi Mệt Mỏi (An Tiêm 1968), Cái Chuồng Khỉ (An
Tiêm 1969), Xóm Chuồng Ngựa (An Tiêm 1971) và tập Ngồi Đợi Ngoài Hành Lang chưa
in, 11 tập thơ: Bọt Nước (Mặt Đất 1966), Hoa Cô Độc (Mặt Đất 1965), Lời Ru (Mặt
Đất 1966), Đêm Nguyệt Động (An Tiêm 1967), Mộng Du Trên Đỉnh Mùa Xuân (An Tiêm
1972), hai tập cuối cùng là Tịnh Khẩu (An Tiêm 1973) và Du Sỹ Ca (An Tiêm
1973).
Bút
hiệu đầu tiên Sao Trên Rừng đã cộng tác với các tạp chí: Bách Khoa, Sáng Tạo,
Thế Kỷ Hai Mươi, Văn Nghệ, Khởi Hành, Văn ….
Truyện
ngắn Ý Tưởng Chiều Tà in trong Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng
ta.
Bài
thơ tôi thích nhất của Nguyễn Đức Sơn: Đêm thăm bạn sắp đẻ ở Di Linh (trong Thơ
Tự Do Miền Nam, Thư Ấn Quán xuất bản)
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét