BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 27 tháng 6, 2019

CÓ NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ...- Thơ Hạt Cát Diệu Sinh


    
              Nhà thơ Hạt Cát Diệu Sinh


CÓ NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ...
(Tặng một số bè bạn đàn bà tôi)

Có những người đàn bà cứ nín thở cả đời
lừa mị mình, vuốt ve mình với từ “nhân ái”
cố dấu khổ đau, mệt mỏi
cố mỉm cười khi đời nát như dưa
cố biện mình cho ngu si mình với ngàn vạn lý do.
Cuộc xả thân vô nghĩa.

Có những người đàn bà lòng héo úa
mặt tươi hoa
mím chặt môi không cho than van bật ra
trói buộc mình với hy sinh mặc định
hài lòng tự do mình cạn sạch.
Cõi người ích kỷ yên bình.

Có những người đàn bà như vô hình
mong manh khói sương không thật
họ luận bàn triết thuyết cao siêu để quên điều thường nhật
họ thành hư không, thành tiếng vọng giáo đường
thiên hạ ngỡ những người đàn bà này không có đời thường
chỉ biết cho không biết nhận.
họ là viên đá lát hè hay tay vịn cầu thang khi có mặt
Thân phận mỏng manh mây.

Có những người đàn bà vắt máu thịt mình lấy ngọt bùi khoả lấp đắng cay
lúc nào cũng gồng lên vì những gì không họ.
một đời âm thầm đâu cần tiếng rao, đâu cần của nả
họ không mình cả giấc ngủ, miếng ăn.
Cuộc huyễn hoặc xa xăm..

Có ai hỏi họ là ai không?
Có ai hỏi vì sao họ thế?
Có ai mở cõi lòng tử tế
một thoáng ngắn thôi
Cho họ sống BÌNH THƯỜNG.?!

                                     Hạt Cát Diệu Sinh
                                          27/06/2019

CA SĨ THANH THÚY VIẾT TƯỞNG NIỆM NHẠC SĨ TRÚC PHƯƠNG: KHI CUỘC ĐỜI CHIA HAI LỐI…

Nguồn:
https://nhacxua.vn/thanh-thuy-viet-tuong-niem-nhac-si-truc-phuong-khi-cuoc-doi-chia-hai-loi/?fbclid=IwAR1STJ4SwoX1ohPiy1WJTzcQnC2nk3IlwXN-9GrUaIaCQwzf5nr8VFifu0E



        

Anh và tôi không hẹn, nhưng đã gặp nhau trên con đường sống cho kiếp tằm. Anh trút tâm sự qua cung đàn, còn tôi qua tiếng hát. Trong khoảng thập niên 60, tên tuổi anh và tôi như đã gắn liền với nhau: nhạc Trúc Phương, tiếng hát Thanh Thúy.
Như một định mệnh, tôi vào đời ca hát đúng vào thời điểm anh say mê sáng tác, và tình cờ trở thành vị sứ giả đem tâm sự anh đến mọi người, những người không nhiều thì ít cùng mang một tâm sự với anh. Tâm sự về tuổi thơ mộng, về tình yêu dịu dàng của đôi lứa (dù trong bối cảnh đau thương của đất nước),về chuyện tình dở dang, về cuộc đời…

      

TẬN THẾ - Thơ Trần Mai Ngân


  


   TẬN THẾ 

   Chúng tôi không còn nói yêu nhau nữa
   Ngày sắp tận thế rồi
   Mảnh trăng đau mồ côi
   Ngôi sao đã đổi ngôi...

   Chúng tôi không còn nói yêu nhau nữa
   Sáng nay ngày mục rữa
   Câu chúc cũng vô hồn
   Thuộc lòng như điệp khúc

   Chúng tôi không còn chi tha thiết nữa
   Thời gian lạnh trôi qua
   Năm tháng cứ nhạt nhoà
   Môi cười vô tri quá!

   Chúng tôi đã thật lạnh lùng với nhau
   Cành cây ngọn cỏ đau
   Tháng Sáu mưa vùi khóc
   Thuở ngọt ngào qua mau!

   Và có phải chúng ta đang xa nhau... 
   Xa nhau !

                               Trần Mai Ngân
                                  20-6-2018

ĐỌC THƠ NGẮN CỦA LỆ THỦY - Châu Thạch


      
                            Nhà thơ Lệ Thủy


         ĐỌC THƠ NGẮN CỦA LỆ THỦY
                                                         Châu Thạch

Lệ Thủy không phải là người chuyên làm thơ. Tôi chỉ hân hạnh gặp cô một lần khi cô chiêu đãi cà phê vợ chồng nhà thơ Mạc Uyên Linh từ Sài Gòn ra thăm Đà Nẵng. Qua chuyện trò, tôi nhận thấy Lệ Thủy là mọt người yêu thơ thật trọng trắng. Cô quý mến, tôn trọng và tìm đến những nhà thơ vừa già, vừa xấu, vứa không có tên trong các hội đoàn hiện nay như chúng tôi. Về nhà tôi mở trang facebook của lệ Thủy mà tôi vừa kết bạn. Hóa ra Lệ Thủy cũng có làm thơ. Thơ đó chỉ là nhưng dòng ngắn gọn, thành vần do cảm  hứng bất ngờ đến trong phút giây. Tuy thế, chính nhờ vậy mà tiếng thơ của Lệ Thủy cho tôi nhiều cảm xúc, thú vị như được ăn một thứ quả nhỏ, thơm, vừa hái ngay từ trên cây xuống.

KIM YÊU – Truyện ngắn của Đặng Xuân Xuyến


           
                         Tác giả Đặng Xuân Xuyến


KIM YÊU

Bạn có đẹp trai? Chắc cũng chỉ như tôi là cùng. Thề có bàn phím tôi đang gõ, không ít người ngợi khen tôi đẹp trai, còn gọi tôi là Vinh hoàng tử nữa đấy. Thực ra, tôi cũng ý thức được mình đâu có đẹp, chỉ bình thường thôi, cỡ điểm 5 là cùng. Thế nhưng ở xóm, ở làng, ở xã mọi người cứ tấm tắc khen tôi đẹp, tôi tuyệt vời. Ban đầu tôi cũng đâu dại mà tin, cũng tức giận khi nghĩ tới đôi chân vòng kiềng, cái mũi hếch và đôi môi cong tớn của mình nhưng thằng Chủ cứ một hai bảo cả xã chẳng có ai chân thẳng như tôi, con Kim còn quả quyết mũi tôi thực ra đâu có hếch, môi tôi đâu có cong, nhìn còn đẹp là đằng khác… Nếu xã mình mà tổ chức thi nam thanh nữ tú, thế nào đằng ấy cũng đoạt giải nhất. Như thế không tin sao được. Tôi rộn ràng niềm tin mình đẹp trai nhất xã từ đó, từ hồi mới 13, 14 tuổi.

ĐÊM LY BIỆT - Thơ Nguyên Lạc


   


ĐÊM LY BIỆT

Còn đây. một chút muộn màng
Em đem dâng hết. kẻo. tang thương về
Đốt tình. cháy trọn đam mê
Rồi quên đi nhé. lời thề bền lâu!

Chắc gì có kiếp đời sau?
Thì thôi. ta hãy. cho nhau kiếp này!
Đôi môi. đẫm ướt. em đây
Thân cong dâng hiến. hãy. say mê tình!
Mai này. đời đó phiêu linh
Giữ riêng. anh nhé. hương tình của em!

Tiếng chim sớm. hót bên thềm
Báo người. ngày đến. tiếng buồn từ ly
Biệt ly! người sẽ ra đi
Anh ơi vĩnh biệt!
Chắc chi tương phùng?!?

               Nguyên Lạc

MỘNG, HOÀI NIỆM - Thơ Tịnh Đàm


       
                           Nhà thơ Tịnh Đàm


MỘNG

Quẩn quanh chả biết đi đâu,
Vào trong quán “Gió”... Nghe câu hát buồn !
Ngỡ mình, như cánh chuồn chuồn
Mải bay tìm lại cội nguồn hóa thân !

Đất trời muôn nỗi phân vân
Biết ai tương ngộ cho lần hẹn duyên ?!
Đẹp sao giây phút đầu tiên ,
Ân tình dâng tặng còn nguyên mộng người.

NGÀY BÁO CHÍ VIỆT NAM - Đức Hạnh cùng Thi hữu


   


NGÀY BÁO CHÍ VIỆT NAM
        “Thủ nhất thanh”

Báo tỏ bình minh ngời vạn ngã
Báo loan sự thật thắm sơn hà
Báo trung, đất mẹ không nghiêng ngả
Báo thực, dân tình chẳng cách xa
Báo trỗi công bình khai biển cả
Báo hòa chính nghĩa nở ngàn hoa
Báo yêu lẽ phải nào sa ngã
Báo vọng nhân quyền mãi mở ra…

Đức Hạnh
21 06 2019


CÁC BÀI HỌA:


BÁO...
“Tnt”

Báo đền ơn đức tình dang rộng
Báo hiếu Mẹ Cha lượng hải hà
Báo nghĩa sinh thành tươi vạn ý
Báo công dưỡng dục đẹp muôn hoa
Báo ân sông núi lòng không thẹn
Báo đáp giang sơn dạ chớ xa
Báo oán Sự đời đừng cố chấp
Báo thù cõi thế...hãy buông ra

songquang
20190621

Thứ Tư, 26 tháng 6, 2019

ĐÊM KINH THÀNH LỬA DẬY - Thơ Văn Thiên Tùng


   
              Di tích Thành Tân Sở thuộc địa bàn làng Mai Đàn, 
              xã Cam Chính, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị
                        

ĐÊM KINH THÀNH LỬA DẬY
               (23.5, Ất Dậu)

"ĐÀN ÂM HỒN" chứng tích lịch sử
Đêm kinh thành một thuở nấu nung
Nỗi đau dân tộc tột cùng
Hận Tây - Sa áp xiềng gông Nam triều ...

Ỷ thế mạnh đặt điều áp bức
Buộc triều đình tuân phục sứ Khâm
Phép vua - luật nước Đại Nam
Xưa rày tất tật rắp răm thi hành

Trước nghịch cảnh sao đành khuất phục
Nén hận ôm nổi nhục như vầy
Tôn Vua bổn quốc xưa rày
Tự quần dân định sao bày trình qua

Cửa Ngọ Môn chỉ Vua Nam được
Hành di cùng quan tước quốc gia
Cớ sao sứ quốc bỏ qua
Đi vào cửa chính… như là bổn Vua…

Bao lần nhịn bàn qua thương thảo
Sứ chẳng nhường lại lệnh triều ta
Đệ trình Pháp quốc phương xa
Tất tật mọi việc …tấu thưa ngọn ngành

Bắc - Trung - Nam đành rành một dãy
Chúng rắp tâm cướp lấy hai đầu
Nam - Bắc nuốt hận ngậm sầu
Triều đình ấm ức nát nhàu tâm can

Đêm hai hai - tháng năm - Ất Dậu
Lửa Hoàng thành nung nấu sục sôi
Chuyển nòng đại pháo điểm nơi
Từng tràng nhả hận đất trời chuyển rung…

Đồn Mang Cá đì đùng lửa dậy
Tòa Khâm kia đâu đấy siết vây
Pháo xòa thiêu rụi đồn bây
Hỏa công xáp trại bủa vây đến cùng

Rạng sáng ngày Hoàng Cung rực lửa
Súng đì đùng tứ cửa kinh đô
Vỡ thành chúng ập tràn vô
Cuồng điên đốt phá - cướp kho giết người

Lửa ngút trời, máu đào đẫm phố
Xác con thơ già cả nào phân
Tiếng gào la thét thất thanh
Kinh thành máu nhuộm - Hoàng Thành tả tơi…

Đành tạm buộc di dời vương điện
Xuất cung men rừng - biển hướng ra
Quan quân phụng chỉ giá xa
Hậu cung theo bước Hoàng gia đến cùng

Hai hướng chuyển di đồng đôi tướng*
Dừng cựu dinh** rồi hướng lên non
Kinh thành dẫu mất hay còn
Tôi trung thời mãi sắt son theo cùng

Ngược dòng Hàn lên vùng Trấm - Trái
Non Mai thiêng - sơn trại định hình
Ba Lòng nguồn thẳm đất linh
Định Thành Tân Sở (2) dụng binh khởi cờ

Nung nghĩa khí sẵn chờ đồng dậy
Hịch cần vương (2) đâu đấy Vua tuyên
Đại Nam khắp cả ba miền
Sỹ phu cùng với quần hiền chung tay...

Dựng sơn phòng đó đây vững chí
Khắp ba miền nung khí hờn căm
Nhắn cùng Pháp quốc xa xăm
Mông - Nguyên - Tàu - Hán nghìn năm ê chề

Văn Thân vọng lời thề chí sỹ
Từ Vụ Quang cho chí Ba Đình
Hương Khê - Bãi Sậy - Quảng Bình... chuyển lay

Đinh Công Tráng lũy dày cẩn mật
Phan Đình Phùng tất bật ngược xuôi
Đồng tướng Cao Thắng sục sôi
Súng trường chế tác ra đời Pháp kinh

Mai Xuân Thưởng nghĩa binh lừng thế
Nguyễn Xuân Ôn Thanh - Nghệ vẩy vùng
Tống Duy Tân dụng võ lẫy lừng
Thiện Thuật - Đề Thám trùng trùng kế hay

Lời sát thát "BÌNH TÂY SÁT TẢ"
Khắp ba kỳ bôn bả lập công
Bao phen giặc Pháp khốn cùng
Thôi đành gác mộng xăm lăng vẫy vùng...

Nổi oán hận chất chồng sông núi
"ĐÀN ÂM HỒN" điểm múi mốc son
Những ai vì nước vì non
Thác lúc binh lửa mất còn hảy hay...

Đàn Âm hồn xưa rày vẫn thế
Lệ thường niên lễ tế vong linh
Đã vì quốc sự quên mình
Hay vì đại nạn đao binh phách tầm

                Quảng Trị, 19/6/2019
            Mai Vân Văn Thiên Tùng

* Hai đại thần : Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường.
** Thành Quảng Trị.

…….

 (1) Chiếu Cần Vương.
Tên chính thức là Lệnh dụ thiên hạ cần vương, là lệnh dụ của vua Hàm Nghi nhà Nguyễn, tuyên bố ngày 13 tháng 7 năm 1885 (tức ngày mùng 2 tháng 6 năm Ất Dậu) tại căn cứ Tân Sở thuộc Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị khi phe chủ chiến của triều đình Huế thất bại trong trận chiến Kinh thành Huế ngày 5 tháng 7 năm 1885, nhà vua phải xuất bôn. Đây là lời dụ kêu gọi sĩ phu và dân chúng toàn quốc nổi dậy chống lại sự đô hộ của người Pháp lên đất nước Đại Nam sau Hiệp ước Giáp Thân (1884).
(2) https://bazantravel.com/thanh-tan-so-o-quang-tri/
(3) ĐÀN ÂM HỒN
http://www.husta.org/…/bien-co-kinh-do-hue-nam-1885-va-le-t…
(4) Bài Văn Tế Đàn Âm hồn - Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
http://www.art2all.net/tho/vinhba/vanteamhon.html

Thứ Năm, 20 tháng 6, 2019

ĐỌC “NGÀY SINH” THƠ HƯ VÔ - Châu Thạch


    
               Nhà thơ Hư Vô và nhà bình thơ Châu Thạch


        ĐỌC “NGÀY SINH” THƠ HƯ VÔ 
                                                        Châu Thạch

Nhà thơ Hư Vô, một cây bút ẩn dật sống đời đạm bạc ở miền quê Đại Lộc Quảng Nam. Thế nhưng lạ thay, thi hữu của anh rất đông, và ai cũng muốn tìm đến anh như tìm một hàn sĩ thân thương được đời mến mộ.
Mấy hôm nay tôi viết nhiều nên muốn nghĩ ngơi. Vậy mà, đọc bài thơ “Ngày Sinh” của Hư Vô vừa sáng tác nhân sinh nhật của mình, tự nhiên mắt tôi hoen lệ. Có lẽ vì Hư Vô là người bạn thơ tôi yêu mến, nên sự đồng cảm với thơ rất nhanh, buộc tôi phải viết cái gì đó cho thơ bạn tôi mà cũng như cho mình, như tự lau giọt lê đã làm cay đôi mắt đã già.

DẪU LÌA NGÓ Ý – Ngô Hương Thủy


           
                          Tác giả Ngô Hương Thủy


     DẪU LÌA NGÓ Ý 
                           
     “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”
     (câu 2242 trong Đoạn Trường Tân Thanh)

Nhà thơ ngụ ngôn người Pháp La Fontaine đã nói một câu rất hay về tình bạn: “Tình yêu thật sự đã hiếm; tình bạn thật sự còn hiếm hơn”.
Cát Đằng, tên một loài hoa leo có màu xanh pha tím, mỏng mảnh. Bạn tôi cũng dịu dàng, mềm mại, quý phái như hoa.
Chúng tôi thân nhau từ thuở nhỏ, lúc còn học trường tiểu học Đoàn Thị Điểm trong Thành Nội. Hai đứa cứ thế lớn dần lên, lần lượt qua bên kia sông Hương học Đồng Khánh rồi Văn Khoa…
Nhà Cát Đằng nằm ở một góc nhỏ trên đường Mai Thúc Loan. Căn nhà cổ xưa như cuộc sống quan cách của gia đình. Ba Cát Đằng làm công chức cao cấp của Ty Ngân khố Thành phố. Ông đặt cho con những cái tên thật đẹp của các loài hoa : Cát Đằng, Đỗ Quyên, Hoàng Lan… Mấy chị em sống khép kín như những con ốc trong bốn bức tường rêu.

TÌNH BỖNG NHỚ, BỖNG QUÊN - Phan Quỳ


    
                 Nhà thơ Phan Quỳ


TÌNH BỖNG NHỚ, BỖNG QUÊN

Người đi. Tình bỗng nhớ.
Người về. Tình bỗng quên.
Ta chào nhau giữa phố.
Phôi pha những êm đềm.

Ơi tia nắng vừa lên.
Ơi cơn mưa chợt xuống
Ơi mùi hương cỏ mật
Ơi tóc đẫm sương đêm.

Có cồn cào hiển hiện
Có sâu lắng trong tim
Có im lìm bão nổi
Có ồn ào, dịu êm?

Biết bao lần ta hỏi
Con sóng nào qua mau
Cuốn trôi về tất cả
Xô dạt lòng biển sâu?

Có hay lòng ta đau
Cơn mưa dài nỗi nhớ
Cơn nắng đẫm chờ mong
Ngày đìu hiu im vắng
Đêm quạnh quẽ bên song
Đêm chìm lắng mênh mông
Đêm
trăng tàn nguyệt tận
Đêm
hun hút vô cùng...

          Phan Quỳ

GẶP DỊCH GIẢ ĐỖ TƯ NGHĨA - Võ Cẩm


        
                 Đỗ tư Nghĩa và Võ văn Cẩm tại Đà Lạt 14/6/2019


           GẶP DỊCH GIẢ ĐỖ TƯ NGHĨA

Đỗ tư Nghĩa em ruột Đỗ tư Nhơn thầy giáo trường Trung học Nguyễn Hoàng, Quảng Trị. Đỗ tư Nghĩa là một trong số học trò xuất sắc thế hệ NH 60/67, cùng lớp với Đoàn Đức, Nguyễn Thắng, Lê mậu Minh, Nguyễn Đình Hạnh, Nguyễn Văn Quang...
Cô Nguyễn Thị Nhã giáo viên chủ nhiệm gọi Đức - Nghĩa - Thắng là “3 anh em kết nghĩa sân chơi Nguyễn Hoàng Quảng Trị”.
Đoàn Đức kể: Khi học lớp 12C, Nghĩa xin nghỉ học, không đến lớp. Chỉ dự vài giờ Triết của thầy Lê mậu Tâm. Nghĩa vẫn đậu Toàn phần loại cao năm ấy. Học giỏi đến như vậy là cùng.
Nghĩa học Văn Khoa Đại học Huế, tốt nghiệp cử nhân Triết, có những lúc thầy Tâm bận việc thường nhờ nghĩa đứng lớp thay thế thầy.
Nghĩa rất giỏi Anh, Pháp. Nhiều năm dạy học ở Đà Lạt. Sau 1975 Nghĩa nghỉ dạy, chuyên dịch sách đặc biệt là loại sách Triết học, những tác phẩm nổi tiếng của những nhà văn tên tuổi. Nghĩa dịch nhiều tác phẩm của Tolstoy và cuộc đời tác giả “Chiến tranh và Hòa bình”
Cách đây hơn 10 năm gia đình Nghĩa được định cư ở Mỹ. Vợ con đi nhưng Nghĩa ở lại Việt Nam sống một mình tại Đà Lạt với cuộc sống hết sức đơn giản. Đơn giản đến mức tôi phải chịu thua. Con gái của Nghĩa tốt nghiệp Đại học ở Mỹ đang về làm việc ở Việt Nam, quản lý tập đoàn Grab tại Sài Gòn. Hàng tháng cháu lên thăm bố hai lần. Già, bệnh nhưng Nghĩa ăn uống hoàn toàn tự túc. Nghĩa đã ăn trường trai nhiều năm. Riêng khoản này tôi cũng thua.
Ai về Đà Lạt, Nghĩa thường tặng sách mà anh là dịch giả. Lúc cô Nguyễn Thị Nhã còn sống, lên thăm con gái là bác sĩ, cô trò thường gặp nhau. Không lần nào lên Đà Lạt mà tôi không gặp Nghĩa. 

                                                                                   Võ văn Cẩm

KIẾT HẠ - Thơ Trần Mai Ngân


     


KIẾT HẠ

Tháng Năm mùa Kiết Hạ
Vàng câu kinh khói hương
Ta vấn tội nhớ thương
Bởi ái mê tục luỵ...

Đạo đời hãy từ bi
Trái tim ta vô tội
Đã Khắc sâu tên người
Mắt môi đó nụ cười...

Bát Nhã tiếng chuông ngân
Muốn quên cõi tục trần
Ta giam mình chung thân
Mà sao ta không nguôi...

Trăm năm ta tội lỗi
Đọc lời kinh nhớ ai
Tình sao chẳng phôi phai
Nước mắt ta rơi mãi...

Tháng Năm mùa Kiết Hạ
Ta giam ta nẻo nào
Ngoài trần gian ai vẫn
Một tình yêu ngọt ngào...

           Trần Mai Ngân
               5-6-2019

TỰ TÌNH THÁNG SÁU - Thơ Hoàng Chẩm


       
                        Nhà thơ Hoàng Chẩm



TỰ TÌNH THÁNG SÁU

Tháng sáu ơi ngọn ngành xanh vườn cũ
Sông nước chiều xưa mở lối nhớ tình xa
Tay trong nhịp thở nghe tiếng buồn rơi rụng
Bến nước ân tình sâu lắng một mùa hoa

Ta trở lại bên sông tìm giọt nắng
Tháng sáu thì thầm khúc hát gửi lòng ai
Mặt mày xưa ngó nhau buồn không nói
Sợi tóc nào bay vẻ nét tàn phai

Lưng chừng con nước như dòng đời lặng lẽ
Nhớ ngày về theo dấu nụ hồng xưa
Em đong đếm hương nồng mùa hạ trắng
Chén hương cay môi thắm như cơn mưa

Bây chừ một chỗ ngồi còn trống trải
Còn đó ngày sang sông đi ngược đường tơ
Như bắt giữ bóng đời nhau qua dâu bể
Thì thầm âm xưa vọng tiếng đôi bờ.

Đợi vầng trăng khuất mượn màu hoa tím
Thuở đi về chải chuốt một giấc mơ
Tháng sáu có nhau trong từng hơi thở
Khéo tay buộc nối em giữ kín dòng thơ.

Nước không cạn bởi mùa hoa tháng sáu
Ngậm ngùi tôi một thoáng với tóc mây
Nụ hôn muộn màng đầu đời cất tiếng
Tình ơi!
Còn tuổi nào nghe ngóng giữa vòng vây.

                Viết giữa mùa bằng lăng tím
                            Hoàng Chẩm

GIÓ BẤC - Hoàng Long Hải


               
                      Tác giả Hoàng Long Hải


              GIÓ BẤC

               “Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam”
                                                          (Tục ngữ)

      Chẳng ai lấy vợ đàn… ông. Cũng có nghĩa rằng chẳng ai làm nhà quay về hướng khác, nhất là hướng bắc, mà nhà thì phải quay về hướng nam.
      Hướng bắc là hướng gió Bấc thổi, lạnh lắm, nên muốn tránh cái lạnh của gió Bấc người ta phải quay mặt nhà về hướng nam.
     Câu tục ngữ nói trên là của đồng bào miền Bắc Việt Nam.
Đó cũng là kinh nghiệm sống, kinh nghiệm dựng nhà của người ngoài đó. Nhà đã quay về hướng nam, cửa chính cũng không làm rộng, cửa sổ đã nhỏ lại nằm trên cao. Dĩ nhiên, đó là những nhà tranh thuộc các gia đình trung lưu hay nghèo khó, là những nét đặc biệt của lối kiến trúc người Bắc, vừa ngăn cái lạnh của gió Bấc, vừa giữ trộm cắp, nhà lại kín đáo. Người ta thường dấu cái nghèo của mình, cháo thay cơm, hay ăn sắn khoai trừ bữa cũng không ai hay.
      Mái nhà xuống thấp, trùm kín phần trên vách để che mưa. Hơn nữa, cửa chính nhỏ và hẹp, cửa sổ nhỏ và cao để việc sinh hoạt trong nhà được kín đáo nên trong nhà thiếu ánh sáng tự nhiên.
Làm nhà hướng về phía nam có thể đón gió nồm thổi mát vào mùa hè. Hai chái phụ ở hai đầu, một hướng đông, một hướng tây chống hơi nóng mặt trời sáng và chiều.
Trước nhà trồng cau (để đón gió nam mát) sau nhà trồng chuối (lá chuối ngăn bớt gió bấc lạnh mùa đông).
Người đàn bà vắng chồng, đêm đêm ôm con, nghe tàu lá chuối bị gió đập phía sau hè, lòng buồn lắm. Đó là nguồn hứng khởi của câu ca dao:

      “Gió đưa bụi chuối sau hè
       Anh nghe vợ bé, bỏ bè con thơ.”
     
Người giàu làm nhà ngói, nhà cao cửa rộng, tác giả không bàn ở đây.

CHỮ BẬU TRONG HÒ, CA DAO VÀ LỤC BÁT - Nguyên Lạc


        
                               Nhà thơ Nguyên Lạc  
       

         CHỮ BẬU TRONG HÒ, CA DAO VÀ LỤC BÁT
                                                                         Nguyên Lạc


Bài viết này là bài thứ 2 trong loạt bài giới thiệu quê hương nam bộ bình dị và thân thương của chúng tôi.
Đây là bài 1: Nguyên Lạc: VỀ CHỮ “BẬU”

Trong cuộc Nam tiến, nhiều dòng người từ các nơi đã đến vùng đất mới này sinh cơ lập nghiệp, nhất là những đợt di dân từ đất ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Tín, Quảng Nam và Quảng Ngãi) vào cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17.  Trên bước đường chinh phục hoang vu, từ những chiếc ghe bầu, ghe chài, tam bản, xuồng ba lá… hành trang mang theo của những di dân này có cả những câu ca dao để làm chỗ dựa tinh thần trên bước đường xa xứ. Lênh đênh sông nước, những hành trang tinh thần này được họ- các tiền nhân -  cách tân, sáng tác thêm cho phù hợp với hoàn cảnh mới của mình, rồi phổ biến rộng rãi. Chữ "bậu" đặc biệt của nam bộ xuẩt hiện trong ca dao. Những câu hò, điệu lý… từ những ca dao này được hình thành. Tôi xin được tiếp tục giới thiệu đến các bạn sơ lược về hò và một số bài lục bát ca dao có chữ "bậu" thân thương này.