Nhà
thơ Kha Tiệm Ly
VONG QUỐC HÀNH
Tháp cổ ngàn năm đứng gục
đầu,
Lá rừng nhỏ lệ ngậm
ngùi đau.
Oán than nhạc suối sầu
vong quốc
Sông núi tang thương phủ
một màu!
Mòn mỏi bước chân tìm
quá khứ,
Hoàng thành đâu, cung
điện nơi đâu?
Đâu chiến mã, đâu thớt
voi xung trận,
Đâu giáo gươm loang
loáng áp tinh cầu?
Đâu tiếng quân reo, lá
rừng ào ào rụng,
Đâu trường giang voi uống
nước đục ngầu?
Đâu minh chúa làm rụng
rời quân Đại Việt,
Đâu hùng binh, đâu dũng
tướng anh hào?
Tại vì đâu? Tại vì đâu?
Có phải Chế Củ đớn hèn
đã dâng Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính,
Có phải Chế Mân mê mảnh
yếm hồng mà đành nạp hết hai châu?
Hay tại các hôn quân
hoang dâm vô độ,
Với những trận cười bên
rượu ngon, gái đẹp suốt đêm thâu?
Để Đồ Bàn tan tành dưới
vó câu Đại Việt,
Cho máu anh linh pha
sông suối đỏ ngầu?
Để bốn vạn chiến binh
thi hài không thủ cấp,
Cho mười vạn dân lành
xương chất non cao?
Chiêm vương hỡi! Người ở
đâu? Người ở đâu?
Bao cung phi, bao trận
cười nghiêng ngã,
Còn có chăng ở dưới nấm
mộ sầu?
Chế Bồng Nga, vị anh
hùng dân tộc,
Nơi suối vàng người có
ngậm hờn đau?
Bao dũng tướng, bao
hùng binh oanh liệt,
Ngày ban sư máu giặc
nhuộm nhung bào!
Thương Mỵ Ê vương phi
tròn khí tiết,
Thà chết vinh nên mượn
đáy sông sâu!
Dân Chiêm hỡi! Người về
đâu? Người về đâu?
Thành quách huy hoàng
thành bãi vắng,
Núi rừng hùng vĩ hóa
hoang vu!
Lê bước mỏi mòn không định
hướng,
Cỏ cây sau trước vẫn
dàu dàu!
Chỉ một chốc mang thân
người mất nước,
Mà ngàn thu tổ quốc, giống
nòi đau!
Kha Tiệm Ly