BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 2 tháng 7, 2020

VĂN TẾ ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU - Kha Tiệm Ly


  
                   Nhà văn Kha Tiệm Ly


VĂN TẾ ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU 

*Giải nhất toàn quốc năm 2020
*Bản đã chỉnh sửa

Than ôi!

1. Gió dìu mây, mây phủ màu tang,
Sương thức lá, lá rơi nước mắt.

2. Khóc người tuấn kiệt, núi thẳm ngậm ngùi,
Chạnh khúc đoạn trường, dòng sâu man mác!

Nhớ văn hào xưa,

3. Vốn nòi thế phiệt, lời lời hoa thêu gấm dệt, hàng hàng ý ngọc lời châu,
Nhằm cửa danh gia, ngày ngày ngọc dát châu đeo, bữa bữa đũa ngà chén bạc.

4. Hồng Lĩnh đỉnh cao vòi vọi, muôn khí thiêng hun đúc bậc anh tài,
Lam Giang bờ rộng thênh thênh, vạn nguồn mạch sản sinh người khoáng dật.

5. Thông minh đĩnh ngộ, bút văn chương sánh bậc Đỗ, Vương, (1)
Hòa ái khiêm cung, điều nhân nghĩa noi thầy Khổng, Mặc. (2)

6. Cao bằng hiền hữu, luôn chọn bậc trọng nghĩa khinh tài, đâu hiềm nhà cao cửa rộng hay điếm cỏ cầu sương,
Tri kỉ hồng nhan, chỉ lựa người nhả ngọc phun châu, chẳng màng cổng kín tường cao hay lầu ca viện hát.

7. Tài năng đó khó khăn chi danh đề bảng hổ, vinh hiển tổ tông?
Nhân cách ấy trở ngại gì tế thế an bang, chấn hưng xã tắc?

Ngờ đâu,

8. Thời li loạn hốt bạch vân thương cẩu, còn đâu hồi áo gấm hài thêu,
Lửa chiến chinh biến thương hải tang điền, nào ngờ lúc nhà tan cửa nát!

9. Buổi giao thời chia đường hai lối, về phương nào khi thay chúa đổi tôi,
Tiếng đao binh tạo khúc đoạn trường, đàn làm sao khi lạc cung sai bậc?

10. Kinh luân một bụng, đâu anh hùng, đâu tri kỉ, đường trần ai ngoảnh lại bơ vơ.
Kinh điển năm xe, nào trung can, nào khí tiết, đạo thần tử ngẫm càng chua chát!

11. Hùng tâm tráng khí, mà bóng quần hào sau trước vắng tênh,
Viễn trí cao tài, nhưng đường tiến thoái dọc ngang bế tắt!

12. Mộng phù Lê tàn phai lần lữa; làm được gì khi bóng lẻ thân cô?
Vọng cố hương đau xót não nùng; thương biết mấy ngày canh rau cơm lạt!

13. Dằn câu khí tiết, chốn sân chầu che mặt uốn lưng tôm,
Ngậm tiếng thị phi, nơi cửa khuyết nén lòng khum gối hạc!

14. Đã trót đánh rơi thanh kiếm, vinh dự chi lơ láo phận hàng thần.
Thôi đành nương náu bệ rồng, thẹn thùng lắm lất lây hồi đầu bạc!

15. Qua quan ải, giận cuồng ngôn tên ác tướng Phục Ba, (3)
Nhớ Hát Giang, trọng khí tiết vị nữ vương Trưng Trắc.

16. Dù Đồng Trụ rêu đã xanh rì ,
Nhưng Đằng Giang cọc còn nhọn hoắt!(4)

17. Đến viễn phương thấy đời đau khổ, kẻ tù đày, người đói rách, nhớ quê xưa tấc dạ bồi hồi.
Viếng danh nhân chạnh nỗi đoạn trường, nào bi phẫn, nào oan khiên cảm thân phận cõi lòng u uất.

18. Bởi bạo quyền giấu nanh che vuốt, nhai xương người ngọt tợ cao lương. (5)
Nên lê dân bóp bụng thắt hầu, ăn rau dại thường hơn cơm vắt!

19. Đầu Ban Siêu (6) phơ phơ màu tóc, nợ sơn hà tấc đất ngọn rau,
Mây Hoành Sơn bàng bạc đầu non, xót phần số hồng nam nhạn bắc!

20. Đường công danh phủ bao lớp trần ai,
Màu danh lợi nhuộm mấy lần bạch phát!

21. Mãi trông đàn nhạn vỗ cánh nhịp nhàng hướng đỉnh Hồng Sơn,
Mà mặc vó ngựa gõ nhịp u buồn về miền Kinh Bắc!

22. Mỗi bước li hương, mỗi bước não nùng,
Từng hồi nhớ quê, từng hồi quặn thắt!

Mới hay,


23. Li ngự tửu không ngon ngọt lại đắng cay,
Tình đồng liêu chẳng mặn mòi mà nhợt nhạt!

24. Chốn quan trường lỡ thầy lỡ tớ, ích lợi gì chữ tốt văn hay?
Nơi triều trung gượng nói gượng cười, sượng sùng lắm mũ vàng đai bạc!

25. Chán khòm lưng quỳ nơi chín bệ, thùng thình vướng áo rộng hài cao,
Muốn phanh ngực nằm dưới bách tùng, thư thả ngắm trăng thanh gió mát.

26. Sờ tóc trắng thẹn cùng Hồng Lĩnh, thẹn cùng tảng đá, chòm cây,
Nhìn mây chiều nhớ đến Lam Giang, nhớ đến cội tùng, dòng thác

27. Thanh Hiên Thi Tập, gởi gắm phận mình lỡ thời thất thế, đá nát vàng phai,
Bắc Hành Tạp Lục, xót thương bao người ách nước tai trời, mưa vùi gió dập.

Dù cho,

28. Sao văn chương xé toạc lưng trời,
Lòng nhân ái trải dày mặt đất.

29. Viết văn tế độ người thảm tử, xót thập loại chúng sinh sống đọa chết đày,
Mượn tân thanh phổ khúc đoạn trường, thương bao phận hồng nhan hoa trôi bèo dạt!

30. Cảnh tang thương triền miên tám  hướng, nơi ta bà bao người lạc chợ, trôi sông,
Khói binh đao mờ mịt chín tầng, xương vô định bấy kẻ chôn nghiêng, liệm sấp!

31. Sổ đoạn trường hàng hàng lớp lớp, nào giai nhân, nào tài tử, lượn sóng đời dập cuồn cuộn oan khiên,
Đường định mệnh lối lối thênh thênh, nào nghĩa khí, nào trung can, dây oan nghiệt kết trùng trùng u uất!

Ôi!

32. Mang chữ “mệnh” thì nơi đâu không phải bến Tiền Đường?
Chẳng chữ “duyên” làm sao dễ náu nương Quan Âm các?

33. Phận bạc luôn đọa đày bậc khoát luận cao đàm, tú khẩu cẩm tâm,
Con tạo khéo ghét ghen kẻ ngọc diện hồng nhan, thiên hương quốc sắc!

34. Dù bể tang thương trùng trùng gió bão, đầu bút thần vẫn tỏa ánh hào quang,
Ngặt lửa sa trường ngun ngút núi sông, câu khí tiết làm đau lòng ngọc phác!

35. Đâu má hồng mười lăm năm trường đoạn, mà bên tình, bên hiếu luôn sắt son cùng sông núi thênh thênh?
Đâu danh nhân chịu nửa kiếp phong trần, mà chữ tiết, chữ nhân vẫn mênh mang như trăng sao vằng vặc?

Đáng xứng danh:

36. Vô tiền nghệ sĩ aó bố hài gai,
Khoáng hậu thi hào lòng son dạ sắt.
37. Không phải nguyệt mà sáng trong hơn nguyệt; trong rừng bảo điển vĩ nhân, cụ Tiên Điền xứng danh “vạn đại thi hào” .
Chẳng là hoa lại thơm ngát hơn hoa; trong vườn phong tình cổ lục, truyện Thúy Kiều đáng gọi “kỳ thư tuyệt tác”.

38. Cạnh muôn hoa, vua mẫu đơn chẳng muốn tỏa hương, (7)
Giữa bầy chim, chúa phượng hoàng đâu cần khoe sắc! (8)

39. Đẹp làm sao! Nhân dân ngưỡng mộ ngài với biết bao lời châu ngọc thiết tha,
Xứng làm sao! Thế giới tôn vinh ngài cùng trăm linh bảy danh nhân lỗi lạc! (9)

Ôi! Hỡi ôi!

40. Đang cơn mây tạnh ngờ đâu gió thổi ngậm ngùi,
Trong lúc trời quang bỗng dưng mưa bay lất phất!

41. Thu vừa chớm mà vùng đất Tiên Điền (10) mây nhuộm âm u,
Chướng chưa về mà dặm đường Nghi Xuân (10) lá rơi lác đác!

42. Đao định mệnh luôn cướp đường sinh tử, dù thân chẳng còn mà tiếng để danh lưu,
Trận phong lôi sao át sấm tài danh, nên đèn vẫn tỏ dù mưa lùa gió tạt.

43. Lẽ vô thường lại đùa cợt nhân sinh,
Đò li biệt luôn đưa sầu vạn vật!

44. Ơn văn hào tợ trái đồi trái núi, chừng như nước lấp đại dương,
Lời hậu sinh như hạt bụi hạt sương, cầm bằng cát rơi sa mạc!


Hôm nay,

45. Chưa ba trăm năm, mà cả non sông đã đổ lệ vì người nghệ sĩ phong lưu,
Bởi khắp bốn cõi, cứ mỗi tấm lòng đều nghiêng mình trước một thi hào uyên bác.

46. Dù văn chương, dù son phấn, khi thác rồi hậu thế còn ghi,
Dù vô mệnh, dù hữu thần, lúc lìa đời người sau vẫn nhắc.(11)

47. Chén rượu quý kính dâng người tài đức, lượng thứ chúng hậu sinh ý thiển lời thô,
Nén nhang thơm tưởng nhớ bậc cao hiền, cung thỉnh đấng tiền bối lòng thành lễ bạc.

Thượng hưởng!

                                                                                 KHA TIỆM LY

Chú thích:

(1) Đỗ, Vương: Đỗ Phủ, Vương Bật

(2) Khổng, Mặc: Khổng Tử, Mặc Tử

(3) Sau khi đánh thắng Hai Bà Trưng. Mã Viện dựng trụ đồng ở biên giới với hàng chữ khắc trên đó: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (nếu trụ đồng mà bị gãy thì Giao Chỉ bị diệt vong”

(4)Trộm ý của hai câu:
“Đồng trụ chí kim đài dĩ lục,
Đằng giang tự cổ huyết do hồng”
(Trụ đồng đến nay rêu còn xanh biếc,
Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến giờ vẫn còn đỏ au)

(5) Cao lương: Trong “cao lương mĩ vị”, chỉ thức ăn ngon. Nguyên câu trộm ý 2 câu trong bài Phản Chiêu Hồn của cụ Tiên Điền:
“Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di!”
(Không để lộ ra nanh vuốt và sừng (có nọc) độc
Mà cắn xé thịt người ngọt như kẹo như đường)

(6) Ban Siêu: Vị tướng tài thời Đông Hán. Bình định Tây Vực hồi 40 tuổi, đến 71 tuổi mới trở về kinh đô Lạc Dương; lúc đó đầu ông đã bạc trắng .

(7) (8): Mẫu đơn là chúa loài hoa; Phụng hoàng là chúa loài chim (theo quan niệm xưa)

(9) Ngày 25/10/2013, tại kỳ họp lần thứ 37 của Đại Hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) họp ở Paris đã chính thức ban hành Nghị quyết số 37C/15 phê chuẩn Quyết định số 191EX/32 và 192EX/32, nhất trí vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du cùng với 107 danh nhân văn hóa toàn thế giới. Theo đó, hoạt động tôn vinh được triển khai ở Việt Nam và tại các nước trong cộng đồng UNSESCO (niên độ 2014 - 2015).
(Nguồn: https://hanam.gov.vn/…/Danh-nhan-van-hoa-the-gioi--%C4%90ai…)

(10) Làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh là quê hương của cụ Nguyễn Du (mộ cụ nằm tại làng Tiên Điền)

(11) Trộm ý 2 câu trong bài “Độc Tiểu Thanh Kí”:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.”
( Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết .
Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở).  
              

Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2020

HỌC TRÒ TRƯỜNG HUYỆN ĐI THI ĐẠI HỌC - Nguyễn Thị Thu Sương


           
                 Tác giả bài viết Nguyễn Thị Thu Sương


HỌC TRÒ TRƯỜNG HUYỆN ĐI THI ĐẠI HỌC

Bây giờ học sinh không còn phải cực khổ thi đại học, căn cứ kết quả thi tốt nghiệp và nguyện vọng vào các trường đại học, các trường đại học có cơ sở để xét tuyển vào trường. Cách thức xét tuyển vào các trường đại học cũng là một bước tiến dài của việc giáo dục Việt Nam, cũng là trào lưu của thế giới. Tôi chưa xét đến những “vấn đề" nằm phía sau của cuộc xét tuyển này của chúng ta.
Nhớ cách đây hơn mười ba năm, con gái lớn tôi đi thi đại học. Tôi phải dậy thật sớm chuẩn bị bữa sáng, nấu hủ tiếu cho con ăn. Hôm trước đi chợ mua xương heo hầm để có sẵn nước dùng cho ngày hôm sau nấu hủ tiếu. Ngày trước đó, ba nó đi xe máy đến địa điểm thi xem tình hình, để nghiên cứu đường đi như thế nào cho thuận lợi. Ngày thi, cha chở con đến địa điểm thi, trưa canh đón con gái về ăn uống, nghỉ ngơi một chút rồi chở đến trường thi tiếp. Đó là thí sinh có gia đình ở Sài Gòn, được cha mẹ chăm sóc chu đáo đến trường thi, nhìn các con em ở tỉnh đi thi mới thấy thương và tội nghiệp làm sao!

THỂ THƠ 1-2-3 / Trần Mai Ngân

Thể thơ 1-2-3 (do VHSG phát động thể nghiệm)
Một bài thơ gồm 6 câu, chia làm ba khổ thơ.
Khổ 1 gồm 1 câu tối đa 11 từ, cũng là câu đề bài; khổ 2 gồm 2 câu, tối đa mỗi câu là 12 từ; khổ 3 gồm 3 câu, tối đa 13 từ.



       
EM CHỈ MUỐN GIẤU RIÊNG CHO MÌNH EM BIẾT

Một mùa thu ngày cũ đã vĩnh viễn rời xa
Đoá hoa Cúc vàng cúi đầu im lặng kiêu sa

Và câu chuyện của chúng ta giống như bài làm nháp
Viết sai rồi lại xé bỏ... lại viết sai
Để cuối cùng ngã rẽ chia hai không bao giờ quay trở lại...


ĐÊM CHỈ CÓ VẦNG TRĂNG LẠNH 
ĐỨNG IM NGOÀI CỬA

Căn phòng tắt hết đèn duy nhất ánh sáng của trăng
Nên anh vô tình không thấy giọt nước mắt của em

Lặng lẽ rơi tự lặng lẽ một mình lau khô lấy
Đêm cứ thế nối tiếp đêm và trôi qua như vậy
Cũng quen rồi đêm lặng lẽ với ánh trăng im!


CHIỀU XUÂN 
THUYỀN VỀ ĐẦY TRÊN BẾN SÔNG DINH

Con nước cứ dập dình như đứng lại
Có một người đi về lòng như thiếu phụ

Một chuyến tàu xa chẳng thể quay về
Não nề
Nhưng không bật khóc!

                                    Trần Mai Ngân

THÁNG SÁU TRỜI KHÔNG MƯA, THÀ CHỈ LÀ ẢO VỌNG, THÀ EM LÀ NHƯ THẾ - Thơ Lê Văn Trung


        


THÁNG SÁU TRỜI KHÔNG MƯA

thế là đã qua tháng sáu rồi đó em
trời vẫn không đành mưa dù lòng nhau đã ướt
tôi đếm hoài những chiếc lá rơi mà chẳng bao giờ tìm được
chiếc lá cuối cùng đã rụng xuống những mùa xưa
chiếc lá cuối cùng em đã ướp trong thơ
thơ buổi ấy còn thơm mùi tóc rối
thơ buổi ấy còn nguyên màu sương gội
và mắt người nhuộm biếc một hồn thu
thế là đã qua tháng sáu rồi sáu tháng xa nhau
tôi ngồi đợi mưa như thuở đợi em về ngang qua khu vườn cũ
khu vườn có những con bướm ngu ngơ đi tìm hoa hồng đỏ
đã ươm nồng nhụy thắm đóa môi ngoan
khu vườn có những con chuồn chuồn tương tư một chút nắng vàng
bay chạm xuống cánh tay trần mê hoặc
rồi đậu xuống áo lụa người ngây ngất
để lòng tôi tháng sáu trời chưa mưa
để lòng tôi rụng chiếc lá mong chờ
em xa hút sợi mưa chiều tháng sáu
tôi một phương buồn đợi mãi những cơn mưa.
                                            

CÔ ĐƠN - Thơ Nguyên Lạc


   


CÔ ĐƠN

Lất phất chiều mưa bay phố núi
Mắt vời xa. Ly cà-phê đắng... Ta chờ!
Chờ ai? Em? Người từ tiền kiếp?
Đến rồi đi! Tan rồi hợp? Huyễn mơ

Người đến nhé. ta vẫn chờ em đó!
Phố chiều nay mưa sợi nhỏ... rất buồn
Khói thuốc mờ. mắt đợi. mong manh
Người sẽ đến! Có. không? Mộng. thực?

Đừng vội vã nếu là có thật
Ta vẫn chờ
chờ mãi... đến lai sinh
Sẽ hạnh ngộ?
Nào ai biết được
Chỉ một điều... ta. vẫn mãi chờ em!

Lất phất chiều nay mưa phố núi
Khói thuốc cay. Ly cà-phê đắng... Ta chờ!
Chờ ai? Đợi chờ ai đây hở?
Chỉ một điều rất rõ... cô đơn!

                                              Nguyên Lạc

Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2020

HOÀI MONG, HOÀI MƯA... - Thơ Phan Quỳ


    


HOÀI MONG, HOÀI MƯA...

Về đâu
hỡi những đám mây màu cánh vạc ?
Sao không
rớt xuống đời những hạt nước trong veo?
Đất khô cằn và lòng người khô héo
Nỗi chờ mong thao thiết tự bao chiều.
Trời cao vút mấy tầng mây xanh ngắt
Nắng chói chan xối xả xuống chân người.
Nghe bỏng rát, nghe châu thân cuồng khát
Nghe vỡ tan trên lá khô xào xạc
Nghe oi nồng im ắng giữa thinh không.
Đêm ơi đêm sâu thẳm đến vô cùng
Ngày lại đến mơ hồ trong tiếng nhạc.
Vọng về xưa tiếng tơ chùng lỡ nhịp
Nốt thăng trầm ta cứ mãi so dây
Chiều nghiêng nghiêng bóng đổ dưới trời mây
Ta cứ nghĩ phút giây là vĩnh phúc
Ta cứ ở thiên đường trong một chốc
Lúc quay về dương thế vẫn hân hoan
Bởi lòng ta tiếng nhạc mãi vang vang
Ta bước tiếp trong rỡ ràng khó nhọc
Ta bước tiếp giữa trời chiều oi nực
Lòng vẫn mong một bến nước ngày xưa
Chân thả xuống quanh ta hồ bán nguyệt.
Ta vẫn mong giữa vô cùng diễm tuyệt
Chút hương nồng lưu luyến những ngày thơ
Ta vẫn mong những giọt nước trong vừa
Rơi xuống thế như giọt đời cứu rỗi...

                                                     Phan Quỳ

Thứ Tư, 24 tháng 6, 2020

ĐÔI MẮT BIẾT CƯỜI, HOA TÍM CHƯA NGUÔI..., VỚI MƯA CHIỀU... - Thơ Tịnh Bình


   


ĐÔI MẮT BIẾT CƯỜI

Ướt trang thơ cơn mưa chớm hạ
Đốm lửa phượng đầu hè dụ tiếng ve kêu
Những ngã đường bắt đầu chang chói nắng
Tím bằng lăng rụng cánh mỏng sau cùng...

Góc phố hôm nào bâng khuâng hò hẹn
Sắc trinh nguyên màu áo trắng học trò
Bay vào giấc mơ tôi vô tư đàn bướm nhỏ
Có đôi mắt biết cười...

Lạc về đâu cơn mưa đầu mùa ngơ ngác
Trống tan trường từng hồi đứt quãng
Không đành khắc nỗi nhớ lên cây trụi lá
Giọt mưa nào rụng xuống giấc tương tư...

Mùa hạ đến gần
Mùa hạ đang xa
Đường áo trắng lụa là mây trắng
Em khuất lẫn vào đâu tôi tìm hoài chẳng gặp
Chỉ đôi mắt biết cười ơi !
Thầm trộm nhớ đôi lần...

BẾN CŨ, EM VÀ TÔI - Thơ Đoàn Giang Đông


   


BẾN CŨ, EM VÀ TÔI

Bến cũ
Một thời nét đẹp quê
Mùa hoa phượng nở ánh trăng thề
Bóng tre che mát trưa mùa Hạ
Dẫu có đi đâu cũng nhớ về

Em non tơ
Bút cạn mực khó tả
Hương bưởi thơm tỏa ngát đến nơi xa
Tóc nhung mềm vắt qua chân núi lạ
Tôi dại khờ lở uống giọt sương hoa

Không biết vì sao
Lẻ sáu mươi
Mà còn mơ ngắm cánh hoa tươi
Mơ đôi tay ấm trong đêm vắng
Thích mộng hồn ai rót xuống đời...!?!

                   Mùa Hạ nắng gắt 2020
                       Đoàn Giang Đông

THÁNG SÁU MƯA TRÊN PHỐ !!! - Thơ Lý Hạ Liên


    


THÁNG SÁU MƯA TRÊN PHỐ !!!

Phố Phan tháng Sáu mưa tuôn
Đường khuya bóng nhỏ lệ buồn thấm tay
Vườn xưa nguyệt hẹn sum vầy
Ngờ đâu giông bão vạn ngày tái tê
Đèn khuya hắt bóng ủ ê
Trăm thương nghìn nhớ hẹn thề cuốn bay

Em về tìm chén rượu cay
Tìm trăng năm cũ uống say gọi thầm
Phố Phan tháng Sáu mưa dầm
Nhớ người tri kỷ giọt đầm đìa rơi
Xa nhau khuất nẻo đường đời
Nghìn năm nghe tiếng ru hời nhớ thương !!!

                                              Lý Hạ Liên
                                               14.6.2020

THI 9 HÀO NGUYỄN BÍNH, THI ĐỒNG ẤM HIẾU, NHÀ ĐẠI “VDĂNG QUÁ”


       


THI 9 HÀO NGUYỄN BÍNH

Tên thật Nguyễn Trọng Bính “1918-1966”
Xong một kiếp làm ngừơi ?
Xong nợ trần ai khoai củ
Y nhà văn 8 hào Nguyễn Tuân
Ban đêm say rượu tụt quần
Đái tưới hạt sen trên vũng nước
Xong
Nhìn mặt mình và ánh trăng nơi đó
Văng tục: “đời chó quá ?”
Dòng đời nào cũng thế ? và thế thôi ?
Cũng “cuốn theo chiều gió”
Cũng gió chiều nào che chiều ấy
Chữ nghĩa thủa bấy giờ
“hàng hàng châu ngọc hàng hàng gấm thêu”
Dành hết cho villa thơ Tố Hữu
Đồng loạt khen phò mã tốt áo
Không còn sót lại một chữ nào
Cho Quang Dũng, Hoàng Cầm, Nguyễn Bính, Yên Thao
Trọn thế kỷ 20
Nguyễn Bính chỉ sau có mỗi một Tản Đà
Còn thiên hạ
Nói thẳng “dây” thừng
Là Nguyễn Bính đứng trên đầu đái xuống
Sòng bài con đỏ con đen
Chiếu rựợu chén đục chén trong
Sòng đời có sơn ca hoạ mi
Có dòi và bọ hung
Sòng thơ văn cũng vậy ?
Không thể cứ bổn cũ soạn lại
Bình mới rượu cũ
Toàn tuồng tích cũ
Diễn tới diễn lui
“biết rồi khổ lắm nói mãi”
Một chiều tay dẫn chiếc xe đạp
Vai xắc cốt dừng chân bờ ruộng nhà
Đói quá làm bát cơm nguội
Vừa xong thì hộc máu tươi lăn ra chết ?
Trên hố vôi
Còn con heo đụng sáu người
Chưa kịp thịt
Đã thác ?
Thôi hoàn cảnh chừ
Tôi kẻ đi sau ngừơi miền Nam
“Chúc mừng Huynh thoát”

Thứ Ba, 23 tháng 6, 2020

SÔNG - Thơ Trần Mai Ngân


   


SÔNG

Sông hôm nay đầy lắm
Chở nỗi buồn em đi
Có một cánh chim Di
Cũng vừa bay qua bão

Một nhánh hoa Lục Bình
Dập duềnh còn sót lại
Cứ miên man khờ dại
Đi tìm bến bờ xưa...

Trưa hôm nay giăng mưa
Trắng nơi ta hò hẹn
Xoá dấu ngồi năm xưa
Cho trôi vào quá khứ...

Sông hôm nay đầy lắm
Thuyền thì cứ xa xăm
Đôi bờ lỡ âm thầm
Một vết trầm thiên thu...

Sông hôm nay đầy lắm
Chở nỗi buồn em đi
Có một cánh chim Di
Cũng vừa bay qua bão...

               Trần Mai Ngân
                    7-6-2020

Hôm qua một ngày mưa tôi về lại bến sông... tháng sáu!

ĐỘC ẨM, SẦU QUÊ - Thơ Nguyên Lạc


   


ĐỘC ẨM

Dallas tìm đâu người tri kỷ?
Để ngất cùng ta khúc Hồ Trường
Nhìn quanh nhìn quất cao ốc Mỹ
Rượu uống mình ên có đau không?


SẦU QUÊ

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu” [*]

Chiều xuống vời quê nơi nao hở?
Đèn Cali xanh đỏ phát rầu
Trên sông khói sóng nơi đâu tỏa?
Ở đây cao ốc dựng bóng sầu

Tri kỷ nhìn quanh… một tiếng thở!
Rượu uống mình ên có sao đâu?

                                   Nguyên Lạc

…………

[*] Trời về chiều muộn, tự hỏi quê nhà nơi đâu?/ Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn! – Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu

LA GI, PHƯỚC HỘI XƯA - Phan Chính


           

           LA GI, PHƯỚC HỘI XƯA  
                                                                  Phan Chính

           Là một địa danh tồn tại khá lâu trước năm 1975 - xã Châu thành Phước Hội gồm 9 ấp thuộc quận Hàm Tân (Bình Tuy). Lúc ấy bao trùm các phần đất của các phường Phước Hội, Phước Lộc, Tân Thiện, Tân An và xã Tân Phước thuộc thị xã La Gi ngày nay với dân số gần 11 ngàn người. Sau năm 1975, Phước Hội, Phước Lộc là xã Tân Hòa và từ cuối 1979 là thị trấn La Gi (huyện Hàm Tân). Phước Hội trở lại với tên cũ từ cuối năm 2005 khi chia tách huyện Hàm Tân và thành lập thị xã La Gi, trên địa giới mới có diện tích 177 ha, dân số gần 17 ngàn người.