BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2019

BÂY GIỜ TA NHƯ... - Thơ Châu Thanh Thủy


      
                                 Tác giả Châu Thanh Thủy


BÂY GIỜ TA NHƯ...                            

Bây giờ ta như con sóng                             
Lênh đênh xô dạt bến bờ.                             
Bây giờ ta như cơn gió                             
Cuốn tìm kí ức ngày xưa.                                                

Hồn về với những đêm mưa                             
Bóng ai chân trời xa khuất.                             
Hình như có gì đang mất                              
Hình như có gì đang quên.                             

Ta về cùng với bóng đêm                             
Bước chân yếu mền nông nổi.                             
Xa xăm mơ hồ gió thổi                             
Cuốn đi chiếc lá cuối trời.

           Châu Thanh Thủy

EM CÓ NHỚ... - Thơ Hiệp Kim Áo Tím


   
               Nhà thơ Hiệp Kim Áo Tím


EM CÓ NHỚ...

Em có nhớ... một thời mực tím
Một bài thơ ta mãi đi tìm
Bâng khuâng áo trắng đùa trong nắng
Một thoáng rồi bay như cánh chim

Em có nhớ... mỗi lần trốn học
Giấu cặp lang thang trên triền dốc
Ngắm áng mây trời... trôi mãi trôi
Em bảo mây là người cô độc

Em có nhớ... một chiều nắng hạ
Một kỷ niệm hoài nhớ trong ta
Gối đầu trên thảm cỏ mượt mà
Thỏa thích ngắm nhìn trời bao la

Em có nhớ... một chiều mưa rơi
Đưa tay nhặt mãi sao không tới
Bầy mối tango một vũ điệu buồn
Từng đôi cánh mỏng gió buông lơi

Em có nhớ... Một thời ta yêu
Ước mơ bay bổng đôi cánh diều
Dang tay đón cả chân trời rộng
Thương lắm mà sao chẳng nói nhiều?

                            Hiệp Kim Áo Tím
                            Đà Lạt, 24/3/2019

MÙA ĐI - Thơ Nguyễn Thành Tâm


    
             Nhà thơ Nguyễn Thành Tâm


MÙA ĐI

Ta đi qua ngày giông gió
Rụng một nỗi buồn sang nhau
Ta đi qua ngày xa lạ
Nhặt lên phút cuối bắt đầu

Mùa thay gục màu lá đỏ
Biếc xanh e ấp nảy mùa
Mùa đi bạc mùa lá đổ
Muôn trùng trổ hạnh xanh sau

               Nguyễn Thành Tâm

LỜI TRI ÂN MUỘN MÀNG KHI NGƯỜI ĐÃ KHUẤT - Vĩnh Hoàng


     
                Tác giả Vĩnh Hoàng


     LỜI TRI ÂN MUỘN MÀNG KHI NGƯỜI ĐÃ KHUẤT
                                                                                Vĩnh Hoàng

Tôi Vĩnh Hoàng, tình cờ đọc bài “Lời Tiễn Biệt” của thầy Hoàng Đằng viết về Cha Nguyễn Vân Nam sinh năm 1935 người làng Đốc Sơ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Cha mất ngày 17-4-2016 nhằm ngày 11-3 Bính Thân. Bài này tác giả thay cho lời cáo phó.
Sau những dòng tiểu sử đã nói lên công lao của cha dành riêng cho sự nghiêp giáo dục với những học trò nghèo Quảng Trị thất học trong hoàn cảnh cuộc chiến ngày một lan rộng trên quê hương từ những năm 69 đến 75 của thế kỷ trước.

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2019

DUYÊN LAU - Thơ Ái Nhân


    
 

DUYÊN LAU

Bên ni ngập ngụa nỗi sầu
Bên tê hớn hở thả câu mơ màng
Mấy mùa đợi bóng Ngưu sang
Nghẹn ngào Chức Nữ bẽ bàng dạ đau

Duyên tình bạc trắng hoa lau
Thủy chung ngơ ngác lên cầu đợi trăng
Đâu rồi chân sáo dung dăng
Đâu rồi loan phượng thung thăng đường giời?

Giấu đau dưới đáy mắt cười
Ánh trăng bạc phếch trong lời hẹn xưa

                                              Ái Nhân

LỜI HẸN ƯỚC - Thơ Nguyên Lạc


       
                        Nhà thơ Nguyên Lạc


LỜI HẸN ƯỚC

1.

Em còn trẻ những ước mơ quá đẹp!
Tròn nụ cười phượng đỏ con đường
Bước tung tăng chân sáo ngôi trường
Những hò hẹn nồng nàn góc phố

Em còn trẻ đâu biết đời quá dữ!
Đâu biết đời đầy những khổ đau
Đâu biết người không dung thứ nhau
Toàn lừa lọc mưu toan ám hại

Đáng đời chưa ai bảo em khờ dại!
Tin lời tên lãng tử như anh
Để trách hờn nước mắt lưng tròng
Để chờ đợi quắt quay chiều phố vắng

Để đếm bước rã rời cay đắng
Đường quạnh hiu dài lắm phải không em?
Đáng đời chưa ai bảo yêu lầm!
Tên lính trận hoang tàn bạt mạng

HAI MÙA NHỚ NHAU - Thơ Quang Tuyết


      
                 Tác giả Quang Tuyết


HAI MÙA NHỚ NHAU

Trời đang mưa kìa nhỏ
Có ướt áo người về
Anh ngồi thương số phận
Của trong ni, ngoài tê

Quê miềng chừ nắng cháy
Gió Lào tung bụi mờ
Hạ treo cành phượng đỏ
Ve reo hoài điệu thơ

Mưa vẫn mưa nặng hạt
Người vẫn ngồi nhớ ai
Ai của thời xưa cũ
Vương hoài luôn giấc mai

Anh mơ bàn tay nhỏ
Dịu mềm ướt trong mưa
Anh yêu làn tóc xõa
Nhớ thương biết sao vừa

Phải chi ngày xưa ấy
Đừng xếp bút ra đi
Đừng thay màu áo trận
Đừng nghĩ chuyện chia ly

Thì duyên kết nên duyên
Nối thành hoa chỉ đỏ
Ngọt ngào môi của nhỏ
Lời yêu thương Mình ơi

Nhưng mưa hoài nỏ ngơi
Từng dòng cuốn phận người
Anh tìm trong giấc mộng
Một thời ta chung đôi

              Quang Tuyết

TẠ LỖI - Thơ Trần Mai Ngân


   
                    Nhà thơ Trần Mai Ngân


TẠ LỖI

Khi ngắm ảnh em cười anh bỗng khóc
Giờ còn đâu chỉ là khói là sương
Dẫu biết yêu là một cuộc vô thường
Anh vẫn tiếc, vẫn lòng đau khôn tả...

Đôi mắt em mãi dịu hiền như thuở
Một thoáng buồn xa vắng ở nơi đâu
Chịu đựng anh, em đã cố nén sầu
Em vẫn bước thản nhiên trong định mệnh

Anh vô tư đôi khi như hời hợt
Mặc lo toan em đôn đáo ngược xuôi
Anh buông mình chìm trong những cuộc vui
Em không trách mà lặng im chịu đựng

Bao năm tháng dửng dưng cùng số mệnh
Tình bạc đầu anh quay lại cùng em
Vẫn ngôi nhà và hoa cỏ thật êm
Em vẫn thế nụ cười cho độ lượng

Để đến lúc em nhẹ nhàng thanh thản
Bước khỏi đời anh vĩnh viễn không còn
Thương ngày xưa em gánh hết mỏi mòn
Anh nông nổi... cả đời anh nông nổi

Và bài thơ như một lời tạ lỗi
Cả đời này anh tạ lỗi cùng em...

                      Trần Mai Ngân
(Tặng những người phụ nữ gặp bến nước không may)

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2019

“SAY ĐI EM”, MỘT BÀI THƠ “TỚI BẾN” – Phạm Đức Nhì


   
                                   Thi sĩ Vũ Hoàng Chương

     
        “SAY ĐI EM”, MỘT BÀI THƠ “TỚI BẾN” 
                                                        Phạm Đức Nhì

Tôi không nhớ đã “quen biết” bài thơ Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương ở đâu và khi nào. Nhưng trong danh sách những bài thơ hay để giới thiệu với độc giả thì nó đứng đầu. Đọc để cảm thì sao cũng được – đó là “cái riêng” của mỗi người khi đọc thơ, những người khác ít ai dám xía vào. Nhưng bình thơ thì phải có khen chê - phải có một quan niệm về thơ để làm chỗ dựa cho sự khen chê đó. Mỗi lời khen, tiếng chê - ngoại trừ cái hay, dở của ngôn ngữ thơ - đều phải có lập luận để giải thích, và nếu bị phản bác, để bảo vệ nó.

TIẾNG LÒNG - Thơ Hoàng Yên Lynh


        
                          Nhà thơ  Hoàng Yên Lynh                       


TIẾNG LÒNG
                         
Buồn xuống ngang vai sầu cô quạnh
Rừng chiều chuếnh choáng bước loanh quanh
Rượu rót không đầy ngăn dĩ vãng
Thương nhớ hoen vàng giọt nắng hanh.

Chim rừng gọi bạn về xây tổ
Ta gọi đời ta cuộc tỉnh mê
Gươm cùn rượu nhạt trăng lều cỏ
Hỏi người, người có nhớ đến ta.

Chiều lại buồn rồi ta đối bóng
Tình như sương khói giữa mênh mông
Thời gian đã nhuốm từng sợi bạc
Ơi đất khách hề! Kẻ bại vong...

Ta uống cho đời ta ly cạn
Chỉ với rừng thôi rượu tri âm
Rừng khuya thác đổ ta bầu bạn
Nhân nghĩa tình đời mây khói bay.

                                 Hoàng Yên Lynh

MỘT CÂU HỎI, LỬA TÌNH... - Thơ Tịnh Đàm


   
                 Nhà thơ Tịnh Đàm


MỘT CÂU HỎI

Vẫn còn đó... một nỗi buồn
Tôi không biết nữa... Cội nguồn vì đâu ?!
Còn
Cứ da diết...
Cứ rưng sầu !
Đôi khi
Chợt lắng vào sâu đáy hồn !
Hỏi tôi
Với những bồn chồn
Thấy chiều tím nẻo hoàng hôn ..
Chạnh lòng !


LỬA TÌNH...

Lửa tình
Thắp ở mắt, môi
Đủ không em ?
Nỗi bồi hồi anh trông.

Anh xin làm gió phiêu bồng
Mang lời yêu
Rải...
Cánh đồng mơ em.

         TỊNH ĐÀM
(Hóc Môn,TP. HCM)

GIÁ NHƯ... - Thơ Quang Tuyết


   
                 Nhà thơ Quang Tuyết


GIÁ NHƯ...

Giá như trời cho giọng hát hay
Tôi sẽ ôm đàn...
Hát những bản tình ca từ thơ mình sáng tác
Để nhịp con tim theo từng nốt nhạc
Là lòng tôi gởi gắm đấy người ơi
Thăng, trầm thổn thức chơi vơi
Rồi trăn trở theo mệnh đời dang dở
Thả ngu ngơ vào mây bay sóng vỗ
Vào tiếng mưa
Vào hơi thở yêu thương
Để bước đi như vó ngựa can trường
Tan vỡ
Chia ly
Không làm chân chùn bước
Ai có biết
Bài ca là toa thuốc
Dịu cơn đau lành vết sướt tình xưa
Em sẽ hát
Chẳng cần hay anh nhỉ?
Từ những bài thơ
Hoà cung bậc cứ như mơ

                  Quang Tuyết

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2019

ĐIỂN TÍCH VĂN HỌC: “CON CUỐC GỌI HÈ” – Đỗ Chiêu Đức


         Ã„á»— Chiêu Đức
                           Tác giả Đỗ Chiêu Đức
 
                
        ĐIỂN TÍCH VĂN HỌC: “CON CUỐC GỌI HÈ” 
                                                                       Đỗ Chiêu Đức
                               
          Ai xui con cuốc gọi vào hè,
          Cái nóng nung người nóng nóng ghê

     Con Cuốc, ta còn gọi là Con Chim Quấc, đồng âm với chữ Quốc là Nước; tên chữ Nho là Chim Đỗ Quyên với thành ngữ Đỗ Quyên Đề Huyết như sau :

    ĐỖ QUYÊN ĐỀ HUYẾT  杜鵑啼血: là Chim Đỗ Quyên kêu đến mửa máu miệng ra vì nhớ nước thương dân. Chim Đỗ Quyên còn có tên là Đỗ Vũ, Tử Quy, Tử Quyên, giới bình dân Miền Bắc gọi là Con Quốc, Miền Nam gọi là con Cuốc.
Đỗ Quyên kêu suốt ngày đêm từ đầu xuân cho đến cuối hạ, sang thu thì tắt tiếng. Tiếng cuốc kêu đều đều trầm buồn gợi nhiều cảm xúc trong những đêm hè và khi há miệng ra kêu thì da bên trong miệng toàn một màu đỏ, nên mọi người lầm tưởng là chim kêu đến thổ huyết mà chết.
Khoảng thời gian chim cuốc kêu lại nhằm lúc có một loại hoa đỏ thắm nở rất đẹp khắp núi đồi, nên dân gian lại truyền tụng rằng : Hoa có màu đỏ thắm là do nhuộm máu của chim Cuốc thổ ra, vì thế mà gọi loài hoa đẹp đó là Hoa Đỗ Quyên. Theo như bài thơ Ngũ Ngôn của Thành Ngạn Hùng 成彦雄 đời Đường như sau :
                 
          杜鵑花與鳥, Đỗ Quyên hoa dữ điểu,
          怨艷两何賒, Oán diễm lưỡng hà xa.
          疑是口中血, Nghi thị khẩu trung huyết,
          滴成枝上花.  Trích thành chi thượng hoa !

Có nghĩa :

      *  Đỗ Quyên là tên của hoa và của cả chim,
      *  Một bên là oán hờn, một bên là đẹp rực rỡ, hai bên cũng
          không xa cách là mấy, nên...
      *  Ngờ là máu ở trong miệng (của con chim) đã...
      *  Nhỏ xuống nở thành hoa đẹp ở trên cành !

Diễn Nôm :

         Đỗ Quyên chim với hoa,
         Oán đẹp có nào xa.
         Ngờ là máu trong miệng,
         Nhỏ xuống cành nở hoa ! 

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2019

VỊ VÕ QUAN TRIỀU NGUYỄN CỦA LÀNG ĐIẾU NGAO (ĐÔNG HÀ, QUẢNG TRỊ) - Hoàng Triêm sưu tầm


   
                Đền thờ Ngài Phó Vệ uý Cẩm y Hoàng Văn Quý


VỊ VÕ QUAN TRIỀU NGUYỄN CỦA LÀNG ĐIẾU NGAO (ĐÔNG HÀ, QUẢNG TRỊ)

Ngài Phó Vệ uý Cẩm y Hoàng Văn Quý thuộc chi Đệ Nhị, họ Hoàng Phái Nhất, làng Điếu Ngao, nay là Phường 2, Thành phố Đông Hà, Tỉnh Quảng Trị.
Nhân kỷ niệm 178 năm ngày mất của Ngài, để tỏ lòng ngưỡng vọng đối với vị Võ quan triều Nguyễn đã “Vị quốc vong thân”, chúng tôi xin trích dẫn những tư liệu lịch sử có liên quan đến hành trạng của Ngài được sách Đại Nam Thực Lục (Phần chính biên), bộ sử ký viết theo thể biên niên của triều Nguyễn ghi chép:
• Tháng 9 năm 1833 (Minh Mạng thứ 14) “Cho Cai đội vệ Cẩm y Hoàng Văn Quý làm Quản cơ, Thự Phó vệ uý vệ Định Võ, Tả dinh quân Thần Sách phải đi ngay Sơn Tây đốc suất vệ binh và đóng lại đồn thú ở đó”. ( Đại Nam Thực Lục, NXB Giáo Dục, tập 3, trang790).
• Tháng 2-1834 ( Minh Mạng 15 ) “Nhân việc Đề Đốc đạo Trấn Tĩnh, tỉnh Nghệ An đánh nhau với giặc Xiêm bị thua. Thự Phó vệ uý vệ Định Võ Hoàng văn Quý được lựa phái mang 100 quân đến Tấn Sở, Quy Hợp, Nghệ An đóng giữ quân lương làm thanh thế cứu viện từ xa” (Sách đã dẫn, tập 4, trang 80).
• Tháng 3-1840( Minh Mạng 21) “Cho Phó vệ uý vệ Hậu dinh Long Võ Hoàng Văn Quý đổi bổ làm Phó vệ uý vệ Cẩm Y chuyên quản các đội quân Thường Trực và Trường Trực”. (Sách đã dẫn, tập 5, trang 812).
• Tháng 9-1840( Minh Mạng 21).
“Vua sai Phó vệ uý Cẩm y Hoàng Văn Quý đi An Giang, đều theo thượng ty sở tại sung đem lính dõng tới nơi quân thứ đánh dẹp”. (Sách đã dẫn, tập 5, trang 675).
• Tháng 10-1840( Minh Mạng 21).
“Chuẩn cho Tổng Đốc Dương Văn Phong rút về An Giang, đốc suất với Thự Lãnh Binh Nguyễn Duy Tráng và Quản Vệ ở Kinh phái ra Hoàng Văn Quý chia đi các huyện Thượng Phong, Phong Nhương ở Nghi Hoà và Hà Âm, Hà Dương ở Tịnh Biên, tìm bắt bọn giặc đều có chuyên trách”. (Sách đã dẫn, tập 5, trang 820).
• Tháng 11-1840( Minh Mạng 21).
“Vua dụ: Xem lời tâu thì Lê Quang Huyên tựa hồ có ý sợ khó, tránh chỗ nọ tới chỗ kia, không nghĩ đến việc nước. Chuẩn cách bỏ hàm Tham Tri Bộ Binh. Còn Dương Văn Phong thì lập tức cùng với Lãnh Binh Nguyễn Duy Tráng và Quản Vệ Hoàng Văn Quý đi ngay đến Tịnh Biên đánh dẹp, nhận việc ấy làm trách nhiệm của mình”. (Sách đã dẫn, tập5, trang 845).
• Tháng 11-1840 (Minh Mạng 21).
“Dương Văn Phong về đến An Giang, thương lượng và uỷ cho Nguyễn Duy Tráng mang 300 quân đi đến phủ hạt Tịnh Biên đánh dẹp, còn mình và Hoàng Văn Quý quản lĩnh 700 binh dõng thẳng đến phủ hạt Nghi Hoà. Lúc này ở huyện Phong Nhương có bon giặc đang tụ họp, Tổng Đốc Dương Văn Phong và Quản Vệ Hoàng Văn Quý đã đánh tan bọn thổ phỉ, số còn lại đều chạy trốn vào rừng”. ( Sách đã dẫn, tập 5, trang 851).
• Tháng11-1840. “Tin thắng trận tâu lên, Vua khen ngợi, thưởng cho quan quân đi đánh chuyến ấy Cấp, Kỷ, tiền bạc có thứ bậc. Lại dụ rằng, chuẩn cho Dương Văn Phong liệu lượng để lại cho Hoàng Văn Quý cùng 300 đến 400 biền binh chuyên ở Nghi Hoà còn Dương Văn Phong lập tức quay về Tịnh Biên đốc suất cùng Nguyễn Duy Tráng đánh dẹp cho yên mặt ấy”. (Sách đã dẫn, tập 5, trang 852).
•T háng 1-1841 (Thiệu Trị thứ nhất). “Bọn giặc tụ họp ở xứ Liệt Điệt, Hà Tiên. Tổng Đốc Dương Văn Phong cùng Cẩm Y Phó vệ uý Hoàng Văn Quý cùng chia đường tiến đánh, lấy luôn được bốn đồn, thừa thắng chuyển sang ở Cần Sư. Phong cùng Lãnh Binh Nguyễn Duy Tráng và Phó Vệ Uý Cẩm Y Hoàng Văn Quý, Quản Cơ Trần Tri và Trần Văn Hoằng đẵn phá nơi đường tắt hiểm trở, đánh phá được sào huyệt của bọn giặc ở hai núi Chân Chiêm và Tham Đăng. Lại phục binh ba mặt đánh ập lại, chém ngay ở mặt trận được ba tên đầu mục và 20 tên đồng đảng, còn thì bắn chết đâm chết cũng nhiều, lấy được khí giới các hạng. Vua thấy quân ta thắng luôn mấy trận rất khen ngợi, thưởng cho các loại nhẫn vàng, kim tiền Phi Long hạng to, nhẫn vàng mặt thuỷ tinh cùng gia thưởng Quân công kỷ lục có thứ bậc”. ( Sách đã dẫn, tập 6, trang 44).
• Tháng 2-1841(Thiệu Trị thứ nhất).
“Nghe tin bọn giặc có 2000 đứa tụ họp ở cổ thành Lò Gò, Phong lập tức chia quân làm 3 đạo sấn lên trước đánh dẹp rất dữ, các đạo quân chém được mười thủ cấp, đâm và bắn chết vài chục tên giặc, giặc bỏ thành chạy trốn. Dương Văn Phong lại dâng tập Thỉnh An: đến như vùng Nghi Hoà thần xin tự mình cùng Quản Vệ ở Kinh phái ra là Hoàng Văn Quý tự đem binnh dõng đi đến nã bắt bọn thổ phỉ (giặc Chân Lạp, giặc Man). Vua chuẩn y, thưởng cho Phong và Quý tiền, áo quần và nhẫn vàng”. (Sách đã dẫn, tập 6, trang 94 và 95)
•Tháng 3-1841 (Thiệu Trị thứ nhất). “Bọn giặc Thổ và giặc Thanh trốn vào các xứ Mã Tộc và Sóc Trăng, đồ đảng đến hơn 6000 tên. Phong tập hợp binh dõng được hơn 1200 quân, chia làm 3 đạo. Phó vệ uý Thần cơ Trung vệ Phạm văn Đại, Phó cơ Chu văn Tuyên, Nguyễn văn Nội đốc suất quân Trung đạo. Phó quản cơ Nguyễn văn Tuấn, Thí sai (tập sự) Phó cơ Nguyễn văn Niên, Bang biện ( trợ lý ) Phó cơ Nguyễn văn Nhạn, Lê văn Thú đốc suất quân Tiền Đạo. Phó vệ uý Cẩm y Hoàng văn Quý, Thí sai Phó cơ Trần văn Nguyệt, Bang biện Phó cơ Nguyễn văn Long đốc suất quân Hậu Đạo, định ngày tiến quân đi đánh. Đến ngày tiến quân Tráng ra hiệu cho quân các Đạo tiến vào. Lúc ấy bọn giặc đương mở tiệc uống rượu, đều bỏ chạy trốn. Các binh dõng đi đấy đều tranh nhau xông vào, người thì cướp lấy tài vật, kẻ thì ngồi xuống ăn uống, ngã cờ, vất khí giới, không chuẩn bị một chút nào. Bọn giặc thừa cơ đánh úp toán quân Hậu Đạo, giết hại quân lính, cướp lấy súng và khí giới. Hoàng văn Quý kêu gọi quân cứu viện, Tráng nói truyền đi là không có quân nào cứu viện được. Bọn giặc nghe thấy nói thế, càng đánh gấp. Văn Quý và Văn Nguyệt đều bị bọn giặc đâm chết, quân Hậu Đạo bị tan rã, quân hai đạo Trung và Tiền vất cả khí giới mà chạy” .
Ngoài những trích dẫn từ sách Đại Nam Thực Lục ở trên, một số thông tin có liên quan đến ngài Hoàng văn Quý từ những nguồn khác được trích dẫn lại:
“Trấn thủ Nam Định Lê Mậu Cúc, Phó Vệ uý Trang võ Phạm văn Toản, Phó Vệ uý Cẩm y Hoàng văn Quý, Cai đội Nguyễn văn Hoà, Hồ văn Vạn, Mai văn Biên, Nguyễn văn Phú, Thành Thủ uý Dương Phúc Tứ, Án sát Thái Nguyên Nguyễn Mưu đều người huyện Đăng Xương và lần lượt chết trận được liệt thờ ở đền Trung Nghĩa”. ( Đại Nam Nhất Thống Chí, NXB Thuận Hoá, Tập 1, trang 289).
• Trong văn tế hàng năm ở đình làng Điếu Ngao, “Trước năm 1972, sau tiên tổ 5 Họ, danh sách mời kế tiếp là:
- Đinh Tri phủ quý công.
- Cai tổng nhị vị.
- Chánh phó lãnh binh Hoàng quý công tam vị: đây là ba ngài thuộc họ Hoàng 1, theo ông Hoàng văn Dự, chỉ hai ngài làm chánh phó lãnh binh thật, còn một ngài được triều đình phong tặng vì đã sinh hạ ra quan. Các vị này, vì có công đức với làng, được làng đưa vào thờ ở đình làng, gọi là hâu thần.” ( Hoàng Đằng, Chuyện Làng Tôi, trang 19).
“Ngài được Triều đình Huế tặng Phấn Dũng Tướng Quân. Sau khi hy sinh Ngài được phong tặng Phó Lãnh Binh, có án thờ tại đình Trung Nghĩa từ năm 1847 ở kinh thành Huế. Thân phụ ngài có Sắc tặng Tín Nghĩa Đô Uý, thân mẫu có Sắc tặng Vi Cung Nhơn. Sau khi Ngài hy sinh, con trai trưởng của Ngài được Tập ấm Phó Quản Cơ, cháu nội trưởng của Ngài được Sắc tặng Tùng Tinh Anh- Danh Giáo Dưỡng”. (Gia phả gia đình) .
• Gia phả viết: “Ngài hy sinh tháng 3 năm 1841, thi hài không mang về được quê nhà, gia đình làm mộ gió và nhờ thầy Pháp chiêu hồn liệm cốt”.
Chúng ta cùng kính cẩn nghiêng mình trước anh linh ngài Phó Vệ uý Cẩm y Hoàng văn Quý nhân kỷ niệm 178 năm ngày mất của Ngài, Người đã hy sinh thân xác của mình để giữ vững cương thổ và mở rộng bờ cõi ở vùng đất phương Nam của Tổ Quốc.

                                                                    Hoàng Triêm sưu tầm
                                                                         (Tháng 3 / 2019)

            


EM ĐÃ YÊU- Thơ Hồng Thúy, nhạc Đỗ Quân, ca sĩ Lâm Dung


 


      

Thơ: Hồng Thúy
Nhạc: Đỗ Quân
Trình bày: Lâm Dung

                

THỜI GIAN - Nguyễn Thị Vĩnh Phước


      


         THỜI GIAN                                                               
                                                        Nguyễn Thị Vĩnh Phước

“Thời gian không đo lường bằng năm tháng mà bằng những gì chúng ta làm được.” (H.Cason)                                                                                                                                                                     
Trời cuối hạ với những cơn mưa chiều bất chợt đôi khi làm tôi xốn xang nhớ về những cơn mưa của tháng ngày xa xưa. Ngày ấy, đối với tôi có khi như vừa mới hôm qua, cũng có khi như đã quá xa xôi trong miền dĩ vãng… Giã từ quê nhà Lam Thủy tôi theo gia đình chồng vào miền Nam tìm kiếm cuộc mưu sinh. Bước thẳng vào cuộc sống mới toanh - ở cái nơi chốn mà chưa hề hình dung ra được trong trí tưởng tượng của tôi. Đó là một vùng đất bỏ hoang lâu ngày nên cỏ tranh và lau sậy ngút ngàn.  
 

CHỊ TÔI... - Quang Tuyết


           
                               Chị Thủy An


             CHỊ TÔI...
                                   Quang Tuyết

Viết về chị cả đời không hết chuyện... Khen suốt ngày cũng không cạn ý, và có cố gắng học mãi đức tính tốt của chị cũng khó thành công vì đó là bẩm sinh.
Chỉ mỗi phong thái ngồi, đi... của chị thôi mà tôi học hoài sao cứ lóng cóng vụng về, đừng nói chi đến lời ăn tiếng nói điềm đạm, ôn nhu cùng lối xử thế luôn một mực nhẹ nhàng với tất cả mọi người chung quanh...
Tôi không nhớ là đọc ở đâu bài viết về những người mẹ, người chị Việt Nam..., những hình ảnh và nội dung bài viết làm tôi liên tưởng đến chị: Nhu mì, hiền thục, chu đáo và hy sinh... Chưa hết, còn tiềm ẩn trong lòng một chữ TÂM đậm nét.