BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2019

BÀI THƠ TỨ TUYỆT VÔ ĐỀ - Nguyên Lạc


             
                        Tác giả bài viết Nguyên Lạc


            BÀI THƠ TỨ TUYỆT VÔ ĐỀ
                                                                            Nguyên Lạc    

VÀI HÀNG TIỂU SỬ

1. HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SĨ

 a.
- Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ tục danh Phạm Văn Thương sinh ngày 15 tháng 2 năm 1943 tại Paksé, Lào. Thầy quê tại Quảng Bình, Việt Nam, là một học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với Chính phủ Việt Nam. Ông hiện là Đệ nhất phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. 
- Thầy thông thạo tiếng Trung Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Thầy được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật. [Viết theo Wikipedia]


         
                                      Thiền sư Tuệ Sĩ

b.
TUỆ SỸ, MỘT THIÊN TÀI CỦA VIỆT NAM :
Thầy xuất gia từ thuở còn thơ và sống ở Lào, làm chú tiểu Sa Di sớm chiều kinh kệ, công phu bái sám, đó là bổn phận của người làm điệu, trong nếp sống nhà chùa. Bằng bản chất thông minh, thiên tư từ thuở nhỏ, cho nên sau khi xuất gia, Thầy đã miệt mài học hỏi kinh điển, siêng năng nghiên cứu nghĩa lý đạo mầu.  Quí sư Lào sau một thời gian dạy dỗ, thấy được trí tánh thông minh của Thầy, chư sư Lào tự thắy không đủ khả năng dạy nữa, để không làm mai một thiên tư trác việt, trí tuệ tuyệt vời, các vị Bổn sư Lào đã gởi Thầy về Việt Nam, cho quí Hòa thượng tiếp tục hướng dẫn, dạy dỗ.

Thầy được đưa về Huế, cùng tu học với quí chư Tăng và thành đạt sở học một cách nhanh chóng. Do vậy, sau một thời gian tham học với chư Tổ Đức về phần kinh luật và chữ Nho, Thầy đã thông suốt và tự mình phát huy sở học mà không cần thầy dạy. Từ đó, Thầy tiếp tục vân du tham học ở chư bậc kỳ tài, hữu danh đương thời, lần hồi Thầy đã vào Sài Gòn để tiếp tay xây dựng và giáo dục đàn em, học trò của mình. Là vị giáo sư gương mẫu, nồng cốt của Đại học Vạn Hạnh, mà cứ mỗi lần gặp nhau thăm hỏi, những người đồng nghiệp đều gọi Thầy là "chú Sỹ" vì Thầy còn quá trẻ.

Thầy phụ trách dạy tại Đại học Vạn Hạnh chương trình Triết học Tây phương, văn học Đông Phương, luận đề Phật giáo : triết học Tánh Không, Trung Quán luận, A Tỳ Đạt Ma, đại cương Thiền Quán... Mặc dầu ở vào lứa tuổi đôi mươi, nhưng Thầy đã đóng góp một phần không nhỏ trong nền văn hóa, giáo dục của nước nhà và Thầy đã xuất sắc hơn trong lãnh vực ngôn ngữ : sinh ngữ và cổ ngữ. Thầy tự học, rèn luyện lấy chính mình vì vậy mọi người ai cũng kính mến, thán phục và có nhiều bạn vong niên dưới mái trường Đại học Vạn Hạnh.
                                                          [Viết theo Thích Nguyên Siêu]

2. THI SĨ BÙI GIÁNG

Thi sĩ Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.mất ngày 7 tháng 10 năm 1998 tại Sài Gòn. Ông  là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng...Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa nguồn.
Ông là nhà trí thức lớn, là giáo sư đại học, là học giả, dịch giả, là triết gia, là thi sỹ, là phù thuỷ ngôn ngữ, là kẻ lãng du thiên tài không màng thế sự...

         
                              Thi sĩ Bùi Giáng


BÀI THƠ TỨ TUYỆT XƯA

Các bạn thơ chắc ai cũng biết bài tứ tuyệt rất nổi tiếng của Trương Kế (nhà thơ Trung Quốc, thời Đường Túc Tông). Đây là bài thơ.

PHONG KIỀU DẠ BẠC

Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hà San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
                                           Trương Kế

NỬA ĐÊM ĐẬU BẾN PHONG KIỀU

Trăng tà tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
                              Nguyễn Hàm Ninh dịch

(Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Hàm Ninh, thường bị nhầm là bản dịch của Tản Đà - Wikipedia)


BÀI THƠ TỨ TUYỆT NAY

Theo tôi, bài tứ tuyệt VÔ ĐỀ sau đây cũng hay không kém.
Lạ lùng thay, bài tứ tuyệt này được hai người nổi tiếng làm:  Đó là thầy Tuệ Sỹ và thi sĩ Bùi Giáng. Thầy Tuệ Sỹ làm hai câu đầu, Bùi Giáng tiếp theo hai câu cuối.
Đây là bài tứ tuyệt của hai người:


VÔ ĐỀ

 Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
 Hiện tiền vi liễu lạc hoa phi.  
                                     (Thầy Tuệ Sỹ)

 Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ, 
 Trí hải đa tàm, trúc loạn ty.          
        (Thi sĩ Bùi Giáng tiếp thơ)

Dịch thơ:

Tôi tạm dịch thoát như sau:

Đêm sâu bóng nghiệp theo làn gió
Rõ ràng làm lạc liễu hoa bay
Tâm sự nhẹ dâng cùng lệ khổ
Biển học thẹn lòng trúc tơ  xoay (*)
                              (Nguyên Lạc)

***
Tính nhân bản là một thuộc tính của thơ hay, nước nào cũng có, chỉ có trước hay sau thôi. Nước người có thì nước Việt chúng ta cũng có. Hãy trân trọng cái hay cái đẹp của tiền nhân, của đất nước.

                                                                                 Nguyên Lạc     
.................

Chú thích:

(*) -  Rừng trúc như tơ rối: không thâu đắc được.
                                                  (Trần Việt Long)

- Trí hải:  biển hiểu biết (biển học), nhưng cũng là Trí Hải, tên của một ni sư. Thi sĩ Bùi Giáng  muốn đùa giỡn với thầy Tuệ Sỹ

 [Có tham khảo các bản dịch: Hoàng Quốc Bảo, Trần Việt Long - trang art2all]

@ Phần phụ lục

1. Tuệ Sỹ

Sẵn đây, Nguyên Lạc xin giới thiệu thêm bài thơ KHÔNG ĐỀ của thầy Tuệ Sỹ làm sau này. Bài thơ này khác với bài thơ tứ tuyệt Vô Đề ở trên, gồm 3 khổ như sau:

KHÔNG ĐỀ

Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn 
                                               Tuệ Sỹ

2. Bùi Giáng

Nguyên Lạc cũng xin giới thiệu thêm bài dịch thơ G. Apollinaire của trung niên thi sĩ Bùi Giáng. Bài thơ dịch nổi tiếng này đã được nhạc sĩ tài hoa Phạm Duy phổ nhạc: "Mùa Thu Chết". Bài này rất nổi tiếng trong thập niên 70 tại Sài Gòn, và gắn liền với tên tuổi ca sĩ Julie Quang.

LỜI VĨNH BIỆT

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…
                                         Bùi Giáng dịch

(“Ði vào cõi thơ”. Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigòn, Việt Nam.1969)

Nguyên tác:

L’ADIEU

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
                                     Apollinaire

ĐÂU CẦN CHỜ ĐẾN ĐÊM GIÁNG SINH PHẢI KHÔNG EM? - Thơ Nguyên Lạc


    
   


ĐÂU CẦN CHỜ ĐẾN ĐÊM GIÁNG SINH
PHẢI KHÔNG EM?

1.
Đêm Giáng Sinh Chúa hiện xuống trần
mang niềm tin mới cho nhân thế: Công bằng. Bác ái
Có ích kỷ không em?
Khi anh không thích em bác ái
Em phải yêu thương riêng chỉ anh thôi!

Đêm đâu cần vọng về những tiếng chuông ngân
Khí em đến. ngàn tiếng chuông tình vang hồn anh ngây ngất
Đêm ngọt ngào như chiêm bao
như cổ tích
Đêm khát khao
Đêm huyễn mơ
em. bãi cát nhung êm đợi chờ
anh. nghìn sóng biển phủ tràn
những nụ hôn thân trầm hương ngát

Đêm. chỉ riêng anh và em
Vòng tay đan nồng ấm
vũ điệu Rumba mê đắm
hai thân người cháy bỏng quyện tan nhau

Đêm mang tin vui.
lời tình ca anh hát
ngợi ca thần tình yêu Cupid. em. bắn mũi tên vàng ngay tim. anh ngất
Nên suốt đời anh mãi vọng một phương

2.
Đâu cần chờ đến đêm Giáng Sinh đâu em!
để chuông ngân vang niềm tin mới
Bất cứ đêm quắt quay mong đợi
Em đến là đêm Giáng Sinh!

Hiện hữu em cứu rỗi đời anh!
Có tội lỗi lắm không?
khi nghĩ em là Chúa
mang tin mừng riêng chỉ anh

Cảm ơn em. suối tóc êm nhung
mật ngot môi cong
Và cảm ơn thân trầm
ngực rằm dâng hiến

3.
Đâu cần chờ đến đêm Giáng Sinh đâu em!
Ngàn nến hồng lấp lánh rạng tâm khi em đến
đêm nồng nàn đêm khát khao đêm mê đắm
Đâu cần chờ đến đêm Giáng Sinh phải không em?

                                                           Nguyên Lạc

Thứ Hai, 23 tháng 12, 2019

CHUYỆN CŨ... - Thơ Đặng Xuân Xuyến


        
                 Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến


CHUYỆN CŨ...

(Kính tặng chú Trần Quốc Phiệt nhân đọc comments bài NGƯỜI XƯA)

Cháu vốn đa tình mà thủy chung
Mười năm vun mãi khối si tình
Nào đâu biết được người ta đã
Lặng lẽ lên đò để quên sông.

Cháu khờ, khờ lắm. Chú biết không
Cứ ngỡ sông kia chả uốn dòng
Đem gán Xuân thì vào ảo mộng
Đâu ngờ gió lạnh phủ kín sông.

Cháu rõ người ta vội cưới chồng
Cưới người chồng đó có như không
Cứ nghĩ sầu tình vừa tỉnh mộng
Sao lòng còn ở ngã ba sông.

Cháu nhắc bao lần đừng ngoái trông
Thây kệ người ta nợ vợ chồng
Nhưng mà đằng đẵng mười năm mộng
Cứ rức trong lòng tiếng sáo Trương!

               Hà Nội, 22 tháng 12.2019
                ĐẶNG XUÂN XUYẾN

NGẪM NGỢI ĐỜI NGƯỜI - Thơ Phạm Ngọc Thái


       


NGẪM NGỢI ĐỜI NGƯỜI
                                
Chiều mệt mỏi. Ta ngồi ngẫm ngợi...
Đời người bao nắng, gió, mưa sa
Dẫu trong hồn vẫn chưa dứt phong ba
Nhưng "cuộc sống - tình yêu" thì đã mãn

Em đã hết. Thân tàn. Vui, buồn đều cạn
Óc chai lỳ như một kẻ vô tri
Nghe bốn phương tình: toàn thấy tiếng chia ly !?
Ừ thì thôi, đi đi ! Không tiếc nữa...

Yêu đã đủ. Khát vọng giờ cũng thỏa.
Sống làm người chỉ đến thế mà thôi !
Vượt hơn lên chán vạn kẻ trên đời
So các bậc tài nhân, đâu có kém.

Để lại nước non, một tấm hình thương mến
Quê hương sẽ ôm ấp tấm lòng ta
Nay hòa chút lệ đời, viết chương cuối khúc tình ca
Rồi dứt bỏ ra đi, không còn lưu luyến nữa.

Ta đã sống cuộc đời đầy ý nghĩa
Đạp trên tiền, danh vị để mà đi...
(thì chuyện áo cơm ai chẳng phải lo vì)
Có vào chốn ngàn thu, ung dung bay cánh hạc.

Chiều mệt mỏi. Đôi vần thơ tan tác...
Ngẩng nhìn trời. Ta gọi: Thế nhân ơi !
Xin rũ sạch bụi trần. Trọn một kiếp người.
Bay lên chín tầng cao... Kẻ lữ hành cô độc...

                                       Phạm Ngọc Thái
                                             7.7.2019

BẾN GA BUỒN - Thơ Thủy Điền


   


BẾN GA BUỒN

Nắng, mưa nào có ngại
Tàu xuôi anh vẫn đây
Tàu ngược anh vẫn đợi
Ngày ngày như mọi ngày

Thế mà ai chẳng thấy
Cứ ngỡ cây điện gầy
Đêm đêm soi thắp sáng
Những hình dáng giai nhân

Gió, sương nào cũng nhẫn
Tàu xuôi vẫn âm thầm
Tàu ngược vẫn mình không
Đi, về trong lặng lẽ

Thế chẳng ai thèm hé ...
Xin tránh nắng bên dù
Xin trú mưa bên mũ
Mặc tiết trời đong đưa

Mặc ai đứng dưới mư
Mặc ai phơi dưới nắng
Vô tư và thầm lặng
Ngày, xuôi ngược con tàu.

                      Thủy Điền
                     22-12-2019

VỤ ÁN ĐẠO Ý THƠ - Nguyên Lạc


            
                          Nhà thơ Nguyên Lạc


           VỤ ÁN ĐẠO Ý THƠ
                                                                 Nguyên Lạc

 Dẫn nhập:
Chủ ý bài viết này là để giải thích rõ vụ án "đạo thơ" của thi sĩ NP Phan - tên FB: Phan Phú - đưa ra. Hình như ông cũng là thầy giáo, nên chắc đã từng dạy "đạo đức", dạy "ngôn lời chân thật" cho các học sinh. Phần phản hồi đến ông Đặng Xuân Xuyến (ĐXX) chỉ là phụ, nên chỉ ghi sơ lược vì bài viết của ông không có tính văn học, chỉ là "bài chửi mắng", mạ lị cá nhân không đáng quan tâm.

CẢC NHÂN VẬT LIÊN HỆ

1. Vài hàng với Đặng Xuân Xuyến

Trong các bài VÀI Ý VỀ CHỮ DÙNG TRONG THƠ [1] của tôi - đã đăng trên các trang trong và ngoài nước - Tôi phân tích ý nghĩa và cách dùng của một số cụm chữ/ từ , không biểt sao vô cớ các ông Đặng Xuân Xuyến, Đỗ Anh Tuyến  và một số người trong nhóm ông - nhóm này tự cho là ĐẠI BÀNG - tấn công "con sâu con kiến" Nguyên Lạc tôi (Đó là những lời trong Email họ phát tán để mạ lị tôi, xin xem ghi chú cuối bài)[2]. Tại sao vậy? Trong các bài trên tôi chỉ phê phán chung chung, đâu có nêu tên ai đâu? Hãy đọc kỹ lại, sao lại "nhột"?
Các bài viết tôi đúng theo yêu cầu văn học. Giả dụ tôi có phân tích để phê phán các ông thì các ông cũng có quyền phản bác lại, bằng các bài viết với ngôn từ văn chương cho phép. Sao không phản bác mà lại phát tán các emails, các bài không có chút gì tính văn chương, "bỏ bóng đá người", dùng "ngôn ngữ TRÍ THỨC không cho phép" để tấn công cá nhân.  Đây là những "ngôn từ thơm tho" - tôi trích từ "bài chửi mắng" của ông - đã được dùng để mạ lị tôi : "thằng lưu manh láu cá vặt vãnh", "ngô nghê", "thiểu năng trí tuệ" (ông mượn chữ Nguyễn Xuân Dương), “ếch ngồi đáy giếng”, trẻ con và NGU (chữ dùng trong Email mà nhóm này đã phát tán cùng khắp). Ôi ngôn ngữ văn chương!

CHÂU SA - Nguyễn Thị Giáng Hương


           


                CHÂU SA
                                                  Nguyễn Thị Giáng Hương
              
Châu Sa là nước mắt rơi hay ngọc châu từ trời rơi xuống? Từ ngày ly hôn với chồng Châu Sa cứ thắc mắc với cái tên của mình. Ngày chia tay Hải - chồng nàng - quá buồn khổ Châu Sa mới hỏi mẹ: “Mẹ ơi! Sao ba mẹ đặt tên con là Châu Sa?”
Mẹ nhẹ nhàng giải thích : “Theo ba mẹ nghĩ: Châu Sa là viên ngọc châu từ trời sa xuống.”
Nàng cười buồn: “Thế mà con cứ nghĩ Châu Sa là dòng lệ rơi - châu sa vắn dài - nên đời con mới gian truân thế này”.

ĐỢI ANH NHÉ ! - Thơ Văn Thiên Tùng


   


ĐỢI ANH NHÉ !

Gió se lạnh nắng hanh luồn giá buốt
Mây võ vàng tầng thấp lướt thướt qua
Ánh tà dương ẻo uột quyện bấc lùa
Mình lặng đứng ngắm dòng sông yên ắng

Mặt nước biếc ủ nét đông trầm lắng
Rừng lau xa màu điểm trắng góc trời
Trong bạt ngàn thảm cúc họa mi ơi !
Là cảnh chứng se duyên đồng kết nợ

Giữa đông gầy với hanh chờ nắng vỡ
Bên triền sông rủ bóng ủ sắc màu
Trong vòng tay nồng ấm khắc yêu đầu
Ôi ! nụ ái rót giọt mềm lịm đắng…

Lời đính ước giữa ngần cúc mi trắng
Để rồi mai anh theo bước quân hành
Chặng dường dài dâng hiến tuổi xuân xanh
Nơi đầu sóng canh biên trời Tổ quốc...

Đây biển xanh tô thắm màu quân phục
Những cánh âu trắng rợp nối chân trời
Anh chợt nhớ về em… lắm em ơi !
Khoảnh khắc ấy giữa điệp trùng hoa trắng…

Gửi về em những nụ hôn thầm lặng
Cùng vòng tay nồng ấm buổi yêu đầu
Lời hẹn thề ngầm hứa lúc bên nhau...
Em nhận nhé! Ủ nồng giấc quạnh quẽ  

Đợi nhé em! ngày anh về mình sẽ
Có ngần cúc họa mi điểm sắc chào
Muôn ngàn lời chúc phúc ngọt nhường bao
Đêm tân hôn… Ôi! ngất nồng nụ ái !!!

               Mai Vân Văn Thiên Tùng
                         12/12/2019

NGHĨA TRŨNG ĐÀN - Thơ Văn Thiên Tùng


   


NGHĨA TRŨNG ĐÀN

Lễ tế (1) thường niên Nghĩa Trũng Đàn
Hai lăm tháng Chạp nguyện hồn an
Thương bao mồ quạnh mưa xoi tróc
Xót lắm xương bày lũ xủa tan
Cũng bởi giang san đành bỏ xác
Hay vì đất nước đoạn vùi thân
Ngài Hoàng Hữu Lợi (2) đồng dòng tộc
Quyết khởi công quy lập mộ phần

Quyết khởi công quy lập mộ phần
Ơn người vì nước vốn quên thân
Một đời trận mạc trừ xâm loạn
Bấy lúc binh đao dẹp giặc tan
Nào kể phân tranh thời Trịnh Nguyễn
Hay khi thống nhất thuở Nam an
"Vong hồn vị quốc" đâu nương tựa
Đều được về  đây: "Nghĩa Trũng Đàn".

                 Mai VânVăn Thiên Tùng 
                           10/12/2019

(1) Xuân Thu nhị Kỳ là 25 tháng Chạp và rằm tháng 6
(2) Thuộc Hoàng tộc, làng Bích Khê, Triệu Phong, Quảng Trị.

http://thixaquangtri.gov.vn/Văn-Hóa-Chính-Trị/Nét-văn-hóa-thị-xã-Quảng-Trị/modid/1010/ItemID/58

http://haiquan.quangtri.gov.vn/Default.aspx?tabid=1791db17-9309-47ba-917a-2c6bd07bb713&mid=ea60c2d2-3426-4531-bb20-ab03a17f5135&itemid=23716&page=DetailHQ

Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2019

UỐNG RƯỢU VỚI THÁI LAN - Thơ Kha Tiệm Ly




UỐNG RƯỢU VỚI THÁI LAN

Mấy mươi năm trước, so với tôi anh không có cửa,
Mà hôm nay anh có cửa quá trời!
Sự phát triển đất nước anh, không còn gì nói nữa,
Nhưng tôi vẫn tự hào cho tổ quốc tôi!

Dân anh ấm no, nhưng chưa sống được ở thiên đường,
Anh vượt qua tôi, nhưng chưa ở vào đỉnh cao trí tuệ.
Sao bằng đất nước tôi có biệt phủ tượng đài đường bệ,
Và những anh hùng giỏi hơn cả Tề Thiên!

Đất nước anh chỉ có rừng xanh, biển sạch,
Sao bằng nước tôi biển bạc, rừng vàng?
Tôi dám đầu độc biển tôi bằng chất thải màu đỏ quạch,
Còn anh dám phá rừng cho cây đổ ngổn ngang?

Bọn trẻ của anh không đánh nhau tại lớp,
Nữ sinh cũng chẳng dám so găng, lột áo giữa đường.
Sao bằng bọn trẻ nhà tôi khoa tay chát, bốp
Chuyện chẳng ra gì mà từ chết tới bị thương!

Không thấy dân anh uống cà phê nghẹt người vào buổi sáng
Chiều cũng chẳng tìm đâu ra làng nướng, hải sản, thịt cầy.
So với toàn cầu, đất nước tôi nốc rượu bia có hạng,
Anh chừng nào mới sánh được tôi đây?

Anh chào đời mới tám trăm năm, tuổi còn quá trẻ.
Tôi hơn bốn ngàn mùa xuân, đáng bậc lão thành.
Anh dù có vượt qua tôi xã hội, học đường, hay tài kinh bang tế thế’
Nhưng với tuổi đời, tôi vẫn mãi mãi hơn anh!

                                                                                       Kha Tiệm Ly

Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2019

GIÁNG SINH - Thơ Trần Mai Ngân


   


GIÁNG SINH

Đồng hồ đúng 24 giờ
Mọi người ôm nhau chúc Merry Christmas!
Thì em và anh vẫn lặng lẽ đi bên nhau
Bàn tay không nắm lấy bàn tay
Giá lạnh... Đông của Sài Gòn lúc 24h đêm...

Trong trái tim anh và em
Gọi nhau bằng tiếng im...Yêu Dấu!
Chắc một điều chúng ta cùng hiểu thấu
Là một tình yêu mang đến nghìn sau...

Thời khắc qua mau
Anh và em hát bài thánh ca
Cả phòng vỗ tay... karaoke cho một trăm điểm tròn
Đâu ai biết ta đã hát bằng mỏi mòn tuyệt vọng...

Vũ trường đêm nay lạnh cóng
Ta dìu nhau những bước rumba
Vòng tay ôm không đủ gọi là
Đôi tình nhân thiết tha đêm thánh...

Đêm giáng sinh trời sao lấp lánh
Em trở về như một Lọ Lem...
Để rớt trái tim ở lại bên thềm
Đông buốt giá... trái tim rồi khô héo!

                                Trần Mai Ngân
                              Giáng Sinh 2019