BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2020

EM THEO ĐOÀN LƯU DÂN - Thơ Phạm Hòa Việt, nhạc Trần Quang Lộc, tiếng hát Khánh Ly, Hương Lan, Hoài Nam

Tưởng niệm nhà thơ Phạm Hòa Việt vừa đi về cõi miên viễn. Xin giới thiệu với bạn bè bài thơ EM THEO ĐOÀN LƯU DÂN rút ra từ tập thơ DÁNG HOA RỪNG của anh đã xuất bản. Bài thơ được làm từ năm 1973 trong chuyến đi thăm Bình Tuy và đã được nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên và Trần Quang Lộc phổ nhạc!


   
                          Nhà thơ Phạm Hòa Việt


EM THEO ĐOÀN LƯU DÂN

I.

Ta theo đoàn lưu dân
Khi mùa xuân vừa ngủ
Khi mùa mưa lại về
Trên môi người góa phụ

Ta ngóng đợi tiều phu
Như niềm khao khát nhỏ
Chân em vẫn ngập ngừng
Trên miền hoang đá cỏ
Trên miền hoang Động Đền
Trên miền hoang biển cả
Ngả bóng chiều không quên
Giữa hai bờ sông Thạch
Ta còn lại sau lưng
Mùi hương quen của đất…

Em theo đoàn lưu dân
Vai son sờn cẩm tú
Ôi tiếng hát xa xưa
Môi thơm bông bí nụ
Ta bên trờ tuổi nhỏ
Lá đông vàng biệt ly…

Em theo đoàn lưu dân
Tóc nghiêng nghiêng sợi đổ
Bàn tay gầy ngón khổ
Ngập ngừng chân bước chân

Em theo đoàn lưu dân
Ta bên trời sóng dạt
Đường chông gai cách mặt
Rừng mưa lạnh đá ghềnh

Em theo đoàn lưu dân
Bỏ ruộng nương hương lúa
Sắn khoai ngày nghèo khó
Cà xanh rau lá đỏ
Miếng ngọt chiều phai hương
Miếng chua chiều lá cọ…

II.

Lưu dân! Đoàn lưu dân!
Mưa vẫn nằm đất lạ
Hai bàn tay trống không
Bới gì trong sỏi đá
Cho ngày tháng đom bông
Cho môi em thêm hồng…

Em theo đoàn lưu dân
Cũng nhọc nhằn tuổi mộng
Bới gì trong đất xanh
Uống gì trong thác xanh
Tay em còn mềm mại
Làm sao ươm trái xanh…

Ta cầu xin, cầu xin
Buổi mai và Đá Dựng
Chuông giáo đường vẫn rung
Có em tìm đất đứng!

Tiếng hát vẫn nhọc nhằn
Đôi làn môi bé nhỏ
Trái rừng là lương khô
Cho những ngày khai phá

Hoa rừng là tinh hương
Cho tuổi hoang Động Đền
Cây rừng là sườn chái
Ta kết lá kè tươi
Trong ngôi vườn trú ngụ
Còn em và biển khơi
Tụ về cơn bão tố…

Mưa rừng là mắt em
Khi đàn chim xa mẹ
Cỏ rừng là tên cha
Khi bỏ quên đồi lá
Giữa bầu trời bao la…

III.

Bàn tay em đã lì
Củi tươi từng đống một
Đốt gì cho chuyến đi!
Bàn tay em đã gầy

Đoàn lưu dân còn đó
Ta cũng nghe sầu cay…
Nhớ quê hương tuổi nhỏ
Nhớ Huế và mưa râm

Ta nhớ cả hoa tràm
Thương con đường nắng mới
Nhớ cát mùa Gio Linh
Sim phơi rừng Cam Lộ

Bàu Đá và Đông Xuân
Giếng trong mùa lá đổ…
Xin góp cả hai tay
Tóc úp đều cổ áo
Đốt lửa cho vườn cây…

Xin hôn em một lần
Để ngày mai còn thấy
Nụ cười em rất xinh
Nụ cười em rất tình…

       Phạm Hòa Việt

VỊ VUA ĐẦU TIÊN TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM LẤY VỢ PHƯƠNG TÂY - Đỗ Hợp

Ông vua này là người duy nhất của nhà Hậu Lê lên ngôi hai lần, người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam lấy vợ phương Tây.

         
                                       Tượng vua Lê Thần Tông


VỊ VUA ĐẦU TIÊN TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM LẤY VỢ PHƯƠNG TÂY
                                                                                             Đỗ Hợp

Vị vua nhà Hậu Lê lên ngôi hai lần

Lê Thần Tông (1607-1662) có tên húy Lê Duy Kỳ, là vị vua thứ 17 của nhà Hậu Lê. Ông là con trai trưởng của vua Lê Kính Tông và hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trinh - con thứ của chúa Trịnh Tùng. Lúc ông sinh ra, vua nhà Lê chỉ còn trên danh nghĩa, mọi quyền hành ở Đàng ngoài đều thuộc họ Trịnh, còn Đàng trong thì chúa Nguyễn cát cứ. Năm 1619, vua Lê Kính Tông bị Trịnh Tùng ép thắt cổ chết. Duy Kỳ lúc này mới 12 tuổi - được đánh giá là vị vua có tướng mạo đế vương với sống mũi cao, mặt rồng - được đưa lên làm vua lấy hiệu là Lê Thần Tông. Ông cũng được nhận định là người thông minh, học rộng, mưu lược sâu sắc và giỏi văn chương. Làm vua được 25 năm, Lê Thần Tông nhường ngôi cho con trai 13 tuổi là Lê Duy Hựu (hiệu là Chân Tông) và trở thành Thái thượng hoàng. Tuy nhiên, ở ngôi chỉ được sáu năm thì Lê Chân Tông ốm, qua đời. Thái thượng hoàng Lê Duy Kỳ trở lại làm vua lần thứ hai. Lần này, ông giữ ngôi đến khi lâm bệnh và qua đời. Thời gian giữ ngôi thêm 13 năm. Đến năm 1662, Lê Thần Tông qua đời, táng tại Ngọc Long, xã Quần Lai, huyện Dương Lôi (nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Nối ngôi Thần Tông là con trai thứ tên Lê Duy Vũ (hiệu là Huyền Tông) cũng ở ngôi 9 năm thì ốm, chết. Kế vị cũng là một con trai nữa của Thần Tông tên Lê Duy Hợi (hiệu là Gia Tông) nhưng ông cũng không qua được bạo bệnh sau 4 năm sở hữu ngôi báu. Tiếp đó, con út của Lê Thần Tông tên Lê Duy Hợp (hiệu là Hy Tông) nối ngôi.

Ngoài bà vợ đầu tiên là Trịnh Thị Ngọc Trúc, vua Lê Thần Tông có 5 phi tần nữa và điều kỳ lạ là mỗi bà thuộc một dân tộc.

MÊ NGỘ - Truyện ngắn của Trần Vũ Minh


                 
                                     Nhà văn Trần Vũ Minh


               MÊ NGỘ
 (Truyện ngắn đã đăng trên VNQĐ tháng 4 /2011 số 724)

Dinh quan phó đô tướng Vân Đồn mùa thu năm 1287.

Nhân Huệ Vương - Trần Khánh Dư cùng các quan ngự nơi “Lầu thưởng nguyệt ” ngắm hoa. Cả tháng nay, đám gia nhân tỏa đi khắp nơi tìm của ngon vật lạ. Những vò “Hoàng hoa mỹ tửu” đã hạ thổ bách niên, “mứt sen Dương Châu” đựng trong dĩa sứ men nâu chạm rồng đời Hán, trà “Ngọc Tĩnh” núi tuyết pha với sương đêm hứng bằng lá sen được đưa về từ Kinh Bắc. Món mặn có “Chim trời vỗ cánh”, “cháo Bát trân hầm tay gấu”, “nem công Tây Tạng”, “chả phượng Sơn Đông”, “óc khỉ đảo Hải Nam”… Cái giống hoa quỳnh đất Châu Hoan sao mà đài các cao sang đến thế, kiêu sa như thiếu nữ đến tuổi cập kê, nồng nàn mà e ấp, thanh cao quyến rũ đến lạ kỳ. Về khuya, cả khóm hoa khẽ lay động, rồi từng cánh, từng cánh cứ nhè nhẹ xòe ra đón nhận tinh túy của đất trời. Phút chốc, những cánh hoa trắng muốt ngự trên đài hoa phớt hồng từ từ cong lại, mềm mại như dải lụa, tỏa hương, ướp vào không gian dưới trời đêm se lạnh. Loài hoa này cũng lạ, cứ từ từ dâng hiến rồi vội vã lụi tàn, để lại sự tiếc nuối cho người thưởng lãm.

BÌNH THUẬN, MỘT THỜI CÁC LÁI GHE BẦU ! - Phan Chính





       BÌNH THUẬN, MỘT THỜI CÁC LÁI GHE BẦU !
                                                                                   Phan Chính

        Đất nước ta có lợi thế bờ biển dọc dài từ Bắc vào Nam. Trong đó Bình Thuận cũng có chiều dài 192km. Lịch sử hình thành cư dân, khai khẩn đất hoang cũng khởi đầu từ đầu thế kỷ 18 với những chiếc ghe bầu đưa lưu dân xuôi nam làm nên xóm làng và ngược lại cung cấp hàng hóa, thực phẩm cho đất kinh đô. Nhưng được biết đến vai trò ghe bầu đắc dụng hơn là dưới thời Nguyễn Ánh đã có trong tay 235 ghe bầu và khoảng 500 chiến thuyền, lập ra những đội “trường đà” hùng hậu có mặt trên biển đông giáp với Hoàng Sa, Trường Sa và hoạt động chài lưới xa bờ dài ngày. Không những riêng cho khả năng quân sự mà trong thương mại ghe bầu còn là phương tiện vận chuyển, chuyên chở hàng hóa, lương thực hiệu quả nhất. Ghe bầu ở nước ta có lai lịch của thuyền buồm gốc Chăm- Mã Lai, cách đọc do biến âm từ “gay” (ghe thuyền) và “prau” (thuyền buồm), rồi người Việt đọc từ pràu thành bầu. Người dân miền Trung thiết kế ghe bầu theo kiểu dáng ghe prau với loại lâm đặc sản thích hợp và nguyên liệu mủ chai, dầu rái… khá phổ biến ở địa phương. Bởi ảnh hưởng đó mà dễ phân biệt thuyền miền Bắc khác với ghe phía Nam qua cánh buồm.



BÀI THƠ “QUAN THƯ” TRONG KINH THI - Hoàng Nguyên Chương




Nguồn:
http://thohoangnguyenchuong.weebly.com/th417-d7883ch-ch7919-haacuten/bi-th-quan-th-trong-kinh-thi

Bài “quan thư” (chim Thư kêu) là bài tình ca mở đầu ở phần Quốc phong (thiên Châu Nam) và cũng là mở đầu cho toàn bộ quyển Kinh Thi. (Kinh Thi là một tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc được sáng tác khoảng từ đầu thời Tây Chu đến cuối thời Xuân Thu. Hiện nay nó còn 311 bài thơ, chia làm 3 bộ phận lớn là Phong, Nhã, Tụng). Như vậy, bài thơ “quan thư” này đã xuất hiện hơn 2600 năm, nó đã đi vào lòng người và còn tồn tại đến hôm nay mặc dù Kinh Thi đã từng bị Tần Thủy hoàng cho đốt sạch. Thế mới biết sự tồn tại của bài thơ hay còn bền bỉ hơn cả những tòa lâu đài cung điện đã từng có ở trên mặt đất

Ngự bút bài thơ Quan thư (Chu Nam) của vua Thanh Càn Long và bức tranh minh họa


BÀI THƠ “QUAN THƯ” TRONG KINH THI

關雎 QUAN THƯ (1)

鳩, Quan quan (2) thư cưu (3)
洲。 Tại hà chi châu.
女, Yểu điệu thục nữ (4)
逑。 Quân tử (4) hảo cầu

菜, Sâm si hạnh thái (5)
之。 Tả hữu lưu chi
女, Yểu điệu thục nữ,
之。 Ngụ mị cầu chi.

得, Cầu chi bất đắc,
服。 Ngụ mị tư phục
哉。 Du tai! du tai!
側。 Triển chuyển phản trắc.

菜, Sâm si hạnh thái,
之。 Tả hữu thái chi
女, Yểu điệu thục nữ,
之。 Cầm sắt (6) hữu chi

菜, Sâm si hạnh thái
之。 Tả hữu mạo chi
女。 Yểu điệu thục nữ.
之。 Chung cổ lạc chi

* Khuyết danh

EM VỀ - Thơ Trần Mai Ngân


        
                            Nhà thơ Trần Mai Ngân


EM VỀ

Em về cởi áo tình nhân
Trả cho vô lượng ân cần đã qua
Nợ duyên của chốn ta bà
Phù vân nhan sắc đã là của ai...

Em về khoác áo phôi phai
Tình chung riêng đã chia hai lối rồi
Nhớ nhau mộng thoáng mây trôi
Dùng dằng mấy cũng vỡ đôi não nề

Em về, ừ nhỉ em về
Tôi gom góp những ủ ê riêng mình!

                             Trần Mai Ngân

RỒI CHỈ THẾ THÔI - Thơ Quang Tuyết, nhạc Nguyễn Tất Vịnh, tiếng hát Thùy Dương

 
       
                            Nhà thơ Quang Tuyết


RỒI CHỈ THẾ THÔI

Thế rồi cũng đến lúc chia tay
Sân cỏ mượt
Nụ hôn ngọt bờ môi tháng tám
Em ngập ngừng đưa tay ôm chắn
Chút dư hương trong giọt nắng muộn màng
Con đường rộng thênh thang
Rắc đầy phấn thông vàng
Một mình em trên lối mòn xưa cũ
Biển ồn ào cho đau con sóng vỗ
Tóc rối ngậm ngùi
Biết gởi gió....
Về đâu?

Rồi ta sẽ lãng quên nhau
Như chưa một lần hay biết
Con đường tình tha thiết bước chân qua
Chiếc lá thu phai
Bàng bạc ánh chiều tà
Cho ray rứt chút muộn màng tình tự

Em thầm hỏi...
Bước chân người xưa nếu về qua chốn cũ
Có gợn sóng trong lòng
Những tiếc nuối bâng khuâng?
Còn nhớ màu mắt ai thẳm xanh
Như miền hoang biển mặn ?
Hay ánh trăng xưa
Xanh muôn thuở diệu kỳ

Lạ lùng thay
Từng bước nhẹ em đi
Còn vương mãi nụ hôn chiều tiễn biệt
Biết bao giờ
Bao giờ anh hiểu được
Thôi cũng đành
Đã đến lúc chia tay...

                                      Quang Tuyết


      

CHÙM THƠ LƯƠNG BÚT


              Nhà thơ Lương Bút


NÓI VỚI BIỂN

Ta, hạt bụi kết tinh
lòng chung thủy
Sóng lăn mình
lên bờ cát long đong
Mỗi mùa trăng
đi qua thời xuân trẻ
Ngậm ngùi ơi !
nghe đau nhói đắng lòng.

Bờ mơ tưởng
đi vòng quanh cõi mộng
Giấc liêu trai
như bẻ gãy lưng chừng
Vết tình sử
Vẽ lên màu hóa thạch
Cho giọt lòng của
biển cũng rưng rưng.

Ly năm tháng
rót bàng hoàng lên đá
ta cúi đầu lặng ngắm buổi hoàng hôn
Nghe lá cỏ
thì thầm lời sáng tối
Nhát dao nào
làm buốt nhói dại khôn.

Mỗi sớm mai
lá ướt dầm sương sớ
Và ngồi đây
hứng hớt giọt muộn màng
Gió côi cút nghẹn ngào
như báo trước
Chảy vào ngày
những giấc nhớ mênh mang.

Gió bộc bạch
nỗi riêng lòng ốc đả
Rớt bên lề
cay xé bụi ban mai
Và ngày tháng viên tròn
theo trăng muộn
Biển đau lòng
mấy ngả sắp chia tay.

Nói với biển,
xin lần bịn rịn
Chỉ một lần
gởi sóng trái tương tư
Để từ gió
rú lên lời ray rứt
Dẫu một lần bịn rịn
với thực hư…

XUÂN MUỘN - Thơ Lê Kim Thượng


        
            Nhà thơ Lê Kim Thượng


XUÂN MUỘN

Ước gì... vôi thắm, trầu xanh
Cau già, rượu trắng... em anh chung nhà
Mộng lành hòa với mơ hoa
Tuổi Xuân nồng ấm, chan hòa ái ân
Dù cho Con Tạo xoay vần
“Ngày sau sỏi đá... cũng cần có nhau...”
Thế rồi... rượu trắng, trầu cau
Xe hoa, pháo cưới... đón dâu theo chồng...

VÕ VĂN DŨNG, CHIẾN TƯỚNG HÀNG ĐẦU CỦA VUA QUANG TRUNG

Võ Văn Dũng là danh tướng của nhà Tây Sơn, đứng đầu trong Tây Sơn thất hổ tướng. Ông sinh tại thôn Phú Phong, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn vào năm Canh Ngọ 1750 trong một gia đình khá giả.

Ông được Quang Trung cử đi sứ nhà Thanh, đồng thời là một trong những tướng lãnh trung thành cuối cùng chiến đấu để bảo vệ sự tồn tại của vương triều Tây Sơn.




TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG

Võ Văn Dũng thuở nhỏ có tên là Độ, là người thông minh, có chí khí từ sớm. Sống trong một gia đình khá giả, ông có điều kiện học hành, lại đi đây đi đó, tầm nhìn được mở nên hiểu biết rất rõ về thời cuộc. Đặc biệt ông rất giỏi võ nghệ, một phần là kế thừa truyền thống thượng võ của quê hương, một phần chính là sự rèn luyện, nỗ lực của bản thân, bao gồm đủ các môn cung, đao, kiếm…

CHUYỆN MỘT NGƯỜI PHÁP LÊN NGÔI Ở TÂY NGUYÊN - Trần Hưng

Trong khoảng thời gian từ năm 1888 đến 1890, một người Pháp nhờ thuyết phục được các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên mà lên ngôi vua, lấy vương hiệu là Marie đệ nhất, đặt tên nước là vương quốc Sedang. Chuyện này không chỉ làm ngỡ ngàng chính quyền Pháp thuộc địa ở Đông Dương mà còn gây náo nhiệt ở châu Âu.

     
        David Auguste-Jean-Baptiste-Marie-Charles. (Ảnh từ wikipedia.org)


CHUYỆN MỘT NGƯỜI PHÁP LÊN NGÔI Ở TÂY NGUYÊN
                                                                                         Trần Hưng

XUẤT THÂN

David Auguste Jean Baptiste Marie Charles sinh năm 1842 ở Toulon, Var, thuộc vùng Provence Alpes Côte d’Azur nước Pháp. Cha ông là một sĩ quan hải quân, và mẹ là con gái của một đại tá chỉ huy lực lượng phòng vệ quốc gia.
Năm 1859, Charles gia nhập kỵ binh, đến năm 1863 ông làm đội trưởng một đội thiết giáp ở Versailles. Vốn là người có bản tính phiêu lưu và thích cưỡi ngựa, Charles đến Đại Nam tham gia đội kỵ kinh ở Nam bộ.

SÔNG LẶNG - Thơ Lê Ngọc Phái, nhạc Hữu Xuân, tiếng hát Quang Minh





SÔNG LẶNG

Mưa chiều quán nhỏ
Lá đổ đầy sân
Đâu ngờ nơi đó
Gặp em trong ngần

Em cười nghiêng nắng
Như mây lạc trời
Ta như sông lặng
Thẫn thờ quên trôi

Giữa dòng phiêu lãng
Tháng ngày lang thang
Đã quên bến đợi
Đò ơi muộn màng….

Bóng chim biền biệt
Nắng dài mưa sâu
Tình cờ gặp lại
Ngỡ ngàng bên nhau!

          Lê Ngọc Phái


    

Thơ: Lê Ngọc Phái
Nhạc: Hữu Xuân
Hòa âm: Hoàng Ngọc Tuấn
Trình bày: Quang Minh

MẶT TỐI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ HẤP DẪN NHẤT TRONG LỊCH SỬ THẾ GIỚI : CLEOPATRA

Cleopatra là biểu tượng của Ai Cập, người phụ nữ xinh đẹp, thông minh nhưng cũng nổi tiếng vì sẵn sàng ám sát bất cứ ai ngáng đường.
Cleopatra là một trong những ngôi sao lớn nhất của lịch sử nhân loại. Cuộc đời bà là một cơn lốc xoáy tràn đầy chiến tranh, lãng mạn và bi kịch. Bà là pharaoh cuối cùng của Ai Cập cổ đại, nổi tiếng vì đã yêu hai nhà lãnh đạo lớn nhất của La Mã. Nhưng bà cũng có mặt tối của chính mình.
Trở thành địch thủ của Cleopatra không phải là một ý kiến hay chút nào. Người ta đồn rằng ai ngáng đường bà đều bị ám sát... (Kể cả người trong nhà). Vậy Cleopatra thực ra là người như thế nào?

                          Sách “Những người phụ nữ thay đổi thế giới”


MẶT TỐI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ HẤP DẪN NHẤT TRONG LỊCH SỬ THẾ GIỚI: CLEOPATRA

Trích sách “Những người phụ nữ thay đổi thế giới” (Kay Woodward)

 Cleopatra tên thật là Cleopatra VII Philopator, sinh khoảng năm 69 TCN, mất ngày 12/8/30 TCN (khoảng 39 tuổi).

Cleopatra sinh ra vào thời Ai Cập cổ đại, hơn 2.000 năm trước, là con gái của Pharaoh Ptolemy XII. Tuy sống ở Ai Cập nhưng gia tộc của Cleopatra là người Hy Lạp, nên đó cũng là ngôn ngữ chính của bà. Nhưng bà cũng học nhiều ngôn ngữ khác nữa, trong đó có tiếng Ai Cập. Bà là người đầu tiên trong gia đình mình làm điều này.

Khi Pharaoh Ptolemy XII băng hà năm 51 TCN, Cleopatra và người em trai mười tuổi Ptolemy XIII đồng cai trị Ai Cập. Họ cũng cưới nhau nữa, vốn là điều mà vua chúa ngày xưa hay làm - thậm chí cha mẹ của họ cũng có thể là anh chị em của nhau.

BUÔN LÀNG HIẾU KHÁCH - Đức Hạnh cùng thi hữu


     
             Sơn nữ Bhnướch thị Oom đang lấy tavak trên cây


BUÔN LÀNG HIẾU KHÁCH

Buôn làng hiếu khách đãi sâm panh (1)
Đặc sản Cơ Tu rất nổi danh
Rượu ngọt thơm lừng trông hết sảy
Hương nồng ngào ngạt thấy ngon lành
Khách hàng thỏa thích dùng luôn đủ
Sơn nữ tươi cười mộng mãi thanh
Giã biệt cô nàng Ta lại nhớ
Buôn làng hiếu khách đãi sâm panh…

Đức Hạnh
10 03 2020

(1) “Đến bản làng của người Cơ Tu, Quảng Nam, du khách được dân làng tiếp đón rất nồng hậu và không thể thiếu chén rượu tavak (tavak giống như cây dừa, người Kinh gọi là “dừa núi” hay cây đoác).
Rượu này có vị thơm ngọt, tê tê đầu lưỡi. Nước rượu màu trắng đục, sủi tăm trong ly, nhìn rất giống rượu sâm panh.”
(2) Nguồn:
https://baomoi.com/cay-ruou-tren-day-truong-…/c/32018129.epi


HỌA:

RƯỢU TAVAK TRỨ DANH
(Thủ vĩ ngâm, bát vận đồng âm)

Thưởng thức rượu này, quả xứng danh:
Uống vào tê lưỡi, ngọt thanh thanh
Càng say thiếu nữ Cờ Tu mảnh
Lại khoái ta - va* Đất Quảng lành
Ước sẽ nhâm nhi cùng Đức Hạnh
Mong cầm so sánh với Sâm Panh
Hàng Tây chỉ được hơn màu ảnh
Thưởng thức rượu này, quả xứng danh!

Tau Dotrong
Bắc giang, 11/3/2020

Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2020

KHÓI CHIỀU, ÁO VÀNG ƠI... - Thơ Hiệp Kim Áo Tím


        
                  Nhà thơ Hiệp Kim Áo Tím


KHÓI CHIỀU

Bếp nhà ai vừa nhóm
Khói chiều nhè nhẹ bay
Lan như làn sương trắng
Rồi hòa vào đám mây

Thơm thơm mùi gạo xay
Làm hồn ta ngất ngây
Ngọt ngào đồng lúa chín
Hạt lúa vàng đâu đây

Vang xa tiếng chuông chùa
Nhẹ như cơn gió lùa
Hoa cỏ như nhảy múa
Rồi khẽ cười đu đưa

Bất chợt một cơn mưa
Xua tan làn khói trắng
Xua nỗi buồn xa vắng
Hồn nhẹ nhàng bâng khuâng

Khói chiều vương trên cây
Làm nỗi nhớ tràn đầy
Nhớ mẹ già ngày ấy
Sao mắt nhòa lệ cay

Hiệp Kim Áo Tím
Dalat,12/ 3/2020

NỖI OAN CỦA CÁ MẬP KHI ĐỨT CÁP QUANG - Nhật Minh

Là cơ sở hạ tầng quan trọng nhất để kết nối mạng toàn cầu, cáp quang biển dễ bị đứt gãy và gián đoạn hoạt động, nhưng phần lớn chúng bị đứt do tác động của con người.

     Tuyến cáp điện tín đầu tiên nối giữa châu Âu và Bắc Mỹ hoàn thành vào năm 1858.            Ảnh: CNN.

      NỖI OAN CỦA CÁ MẬP KHI ĐỨT CÁP QUANG
                                                                                     Nhật Minh

Tháng 7/1858, hai con tàu gặp nhau giữa Đại Tây Dương. Mỗi tàu mang một sợi cáp biển chỉ dày 1,5 cm. Hai sợi cáp được hàn với nhau ở giữa đại dương, hoàn thành sợi cáp biển đầu tiên dài 4.000 km nối giữa châu Âu và Bắc Mỹ.
Sợi cáp này đã truyền đi thư điện tín đầu tiên từ nữ hoàng Victoria của Anh tới tổng thống Mỹ James Buchanan. Những tin nhắn này mất tới 17 giờ để truyền giữa hai nước thông qua mã Morse. Sợi cáp này sau đó cũng chỉ hoạt động thêm khoảng 1 tháng.