BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2024

KIM VĂN, CỖ VĂN - Vũ Thế Thành



Chương trình Việt Văn bậc trung học ở miền Nam có hai phần: Kim văn và Cổ văn.

Kim Văn học các trích đoạn từ các tiểu thuyết trong giai đoạn 1930 đến những năm 50, với vài tác giả mà tôi còn nhớ: Thanh Tịnh (Tôi đi học), Nguyên Hồng (Bỉ vỏ), Trần Tiêu (Con trâu), Bùi Hiển (Nằm vạ), Tô Hoài (Dế mèn phiêu lưu ký), Khái Hưng, Thạch Lam, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,… Có những câu văn đến giờ tôi vẫn nhớ vì quá ấn tượng, chẳng hạn “Chị Doãn là một người đàn bà có cái nhan sắc của một đàn ông không đẹp giai.” (Vũ Trọng Phụng).
 
Nhưng tôi thích cổ văn hơn, vì đa số là thơ có vần có điệu, lại được biết thêm nhiều điển tích, thấy hay hay.
Chẳng hạn lớp đệ thất (lớp 6), học Nhị Thập Tứ Hiếu của Lý Văn Phức diễn thơ, bài nói về thầy Tử Lộ có câu “…Đức cù lao chạnh tới càng đau”, tôi mới biết “cù lao” là công ơn dưỡng dục của cha mẹ, chứ không phải là đảo nhỏ trên sông.
 

NHẠC SĨ TUẤN KHANH CỦA “CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG” BÂY GIỜ RA SAO” - Câu Chuyện Âm Nhạc



Tuấn Khanh tên khai sinh là Trần Trọng Ngọc. Ông sinh ngày 10-12-1933 tại Nam Định. Vào năm 1950, gia đình ông về Hà Nội. Lúc ấy, Tuấn Khanh đã 17 tuổi. Mê âm nhạc từ nhỏ, Tuấn Khanh được người anh cả là Trần Trọng Tuấn dạy chơi violin. Sau đó, học thầy Nguyễn Văn Diệp (vốn là học sinh trường "Pháp quốc Viễn đông âm nhạc viện" từ năm 1927). Từ thầy Diệp, Tuấn Khanh lại được học thầy người Pháp tên là De Haut. Khi thầy về Pháp thì Tuấn Khanh lại được giới thiệu học thầy Rits. Tuy học violin nhưng Tuấn Khanh lại có cả giọng hát bẩm sinh khá hay. Nhân kỳ thi giọng hát hay do Đài Pháp - Á tổ chức năm 1953, Tuấn Khanh (khi ấy vẫn tên là Trần Trọng Ngọc hay Trần Ngọc) đã đăng ký thi và đoạt giải nhì sau nữ ca sĩ Thanh Hằng (sau này là ca sĩ Lệ Hằng), "Tà áo xanh" của Đoàn Chuẩn và cũng là người tạo cảm hứng để Đoàn Chuẩn viết "Chiếc lá cuối cùng" của ông.
 

THÁNG MƯỜI NƯỚC MẮT AI ĐONG BAO NHIÊU LƯỢNG BẤY NHIÊU LÒNG VIỆT NAM – Trần Vấn Lệ



Khi chưa tới tháng Mười, người người đều hỏi:  "Bao giờ cho tới tháng Mười?".  Hỏi rồi cười.  Hỏi rồi khóc!  Một câu hỏi thôi sao mệt nhọc mệt nhoài?
 
Tháng nào chẳng tháng Mười"?  Tháng Bốn Bảy Lăm, thấy rồi, còn hỏi!  Con mắt mọc đuôi bởi vì nó biết nói!  Nhìn Mẹ, kia kìa, nhìn Cha kia kìa, nhìn em kia kìa...Đất Nước thời chia đôi, tình nào cũng chía cách!  Những viên gạch dính máu vỡ làm đôi, làm ba, làm bốn... Tháng Bốn mà, Giời ôi!
 
Ngày Mười tháng Mười năm 1954, Trần Dần tự dưng làm thơ, để đời một câu "thực tiễn"... như con én liệng sa trời mưa sa... "Tôi đi không thấy phố thấy nhà chỉ thấy mưa sa...".  Mắt của Mẹ già, buồn ơi, hun hút!
 
Tháng Mười có thật?  Tháng Mười giấc mơ?  Chiếc tàu há mồm nuốt bao sầu tủi!  Con đường tiếp nối, người đi người đi "từng đêm càng đông dần!".
 
Tháng Mười phân vân như dòng Bến Hải, nói đi nói lại:  " Con Sông Hiền Lương".  Tháng Mười bi thương, sao mong hoài vậy?  Trái tim bừng cháy chút lửa hy vọng, rồi thì mưa sa mưa sa...
 
" Lũ chúng ta
lạc loài dăm bảy đứa
bị Quê Hương ruồng bỏ
Giống Nòi khinh!".
 
Vũ Hoàng Chương ê mình làm thơ ê ẩm!
Tháng Mười ăn mắm... nó thấm về lâu!
 
Sáng nay tôi đứng bên lầu... hình như Ngưng Bích... xanh màu núi sông... Tháng Mười nước mắt ai đong?  Bao nhiêu lượng bấy nhiêu lòng Việt Nam!".
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ

ÁO LỤA, EM [MỜ], GIÓ ĐƯA - Thơ Chu Vưong Miện


 


ÁO LỤA
 
ngày em áo lụa Hà Đông
ngày em váy ngắn mà không quên quần
nõn nà em hở đôi chân
đeo đôi guốc mộc phong vân mấy ngày
nhà quê trâu kéo cái cày
ngày nay ngươì vơí cái cày kéo nhau
gái ngoan kéo rốc sang Tàu
biên cương cửa khẩu Quảng Châu Loan à ?
vàng vòng của quí nhà ta
theo nhau sang tuốt xứ Hoa mua đồ
đem vàng đi đổ sông ngô
tay không về lại toàn tơ vơí mành
ngày xưa áo lụa Hà Đông
bây giờ sóng dậy Hải Nam mất rồi
còn chăng cái búa taì xồi
còn đây trơ mấy cái nồi đồng thau
 

THU XỨ NGƯỜI – Thơ Quang Tuyết


   

Mù sương sáng
Chiều âm u
Em như lạc giữa mùa thu xứ người
Gió lưng trời
Lá buông rời
Mây xô thành lũy hoa cười hắt hiu
Mặt người nhuộm nét cô liêu
Nghe thương nỗi nhớ yêu chiều nắng rơi
Giận ai
Sóng vỗ mạn đời
Buồn ai
Đàn vỡ cho người thương vay
 
                                           Quang Tuyết

MÙA QUA – Thơ Phan Quỳ


   
 
Mùa qua rồi mùa xa,
Mưa đầy trên kẽ lá,
Hắt hiu giọt nắng tà.
 
Ai mang tình thiết tha
Vào trong miền dĩ vãng
Ngỡ ngàng lên màu áo
Hồng, tím chỉ riêng ta.
 
Ai đem tình phôi pha
Giăng mắc đời vọng động
Vạt nắng vàng thuở nọ
Trôi dạt về phương xa ...
 
                    Phan Quỳ

Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2024

TÌNH THU TÀN ÚA – Thơ Khê Kinh Kha


   

đêm qua gió lạnh qua thềm
vầng trăng ngủ mệt trên cành lá khô
mùa thu chợt đến bao giờ
trong tôi nỗi nhớ cũng vừa ngất say
tình xa, xa mãi chân trời
người xa, xa ngoài vòng tay ấm êm
sáng nay sương lạnh đầy cành
ngoài sân chiếc lá nghiêng mình buông lơi
mùa thu nào lá không rơi
nhớ nhung nào-không ngậm ngùi đau thương
đau thương như lá thu vàng
héo khô trong trái tim buồn lưu vong
 
thu này ngồi đếm mưa tuôn
mưa rơi nẻo vắng mà hồn giá băng
lá khô hay lòng khô cằn
mẹ già đâu nữa lệ con dâng tràn
người xưa tóc bạc ưu phiền
phố xưa lối cũ đoạn trường cưng ơi
 
đêm nghe tiếng gió thở dài
trăm năm thân thế phận người long đong
vầng trăng úa rụng sợi vàng
trong tôi ôi cũng úa tàn ước mơ
 
                                       Khê Kinh Kha

HEO MAY BỖNG LẠNH MẮT CON NGƯỜI – Thơ Trần Vấn Lệ


   

Mùa Thu năm nay về quá sớm!
Gió Bấc đã về bứt lá rơi...
Nắng Hạ mới lên chừng mấy bữa,
Heo may bỗng lạnh mắt con người!
 
Chị run rẩy ở hành lang gió,
Chị chắc bâng khuâng thuở biển trời?
Nửa Thế Kỷ qua còn nỗi nhớ,
Gió chiều ai biểu lạnh đôi môi!
 
Anh thì chắc dọc theo đường phố,
Đời quạnh hiu, buồn, mãi thế thôi!
Tuổi trẻ ướp mơ nhiều giấc mộng,
Bỗng dưng già cỗi, tại sao Trời?
 
Chuông ngân chuông ngân ngày lang thang,
Bá Nha không vuốt nữa dây đàn!
Tri âm, tri kỷ ai còn bạn,
Nói đi!  Tôi buồn... nghe hân hoan!
 
Chị buồn như thể câu thơ cũ
mà Diễm Châu từng đã xót xa:
"Chị về đây với người ta,
một hành lang rộng buồn da diết buồn!" (*).
 
                                          Trần Vấn Lệ
 
(*) Thơ Diễm Châu

CON MUỐN VỀ QUÊ NỘI, NỘI ƠI... – Thơ Đặng Xuân Xuyến


   

(Tưởng nhớ Nội kính yêu)
 
Con lớn rồi. Đã tuổi trung niên
Vẫn chưa một lần về thăm Gia Viễn (1)
Ngắm cầu Khuốt sóng dồn mặt nước
Đầm Vân Long vời vợi câu hò...
 
Con chưa về thăm lại Cầu Bo (2)
Bao lần hứa? Bao lần con thất hứa!
Nội ơi Nội! Con đâu còn chọn lựa?
Nội xa rồi! Ai sẽ dẫn con theo...
 
Con muốn về nghe chuyện chùa Keo (3)
Những huyền tích về thiền sư Không Lộ
Lập triều Lý từ cơ mưu chùa cổ
Dựng giang sơn viết trang sử hào hùng.
 
Con muốn về với sức vóc trẻ trung
Thăm chuyện tuổi thơ qua lời Nội kể
Cho con hiểu nỗi đoạn trường dâu bể
Chữ Nghĩa Nhân vật lộn giữa cõi người.
 
Con muốn về với muôn nụ cười tươi
Thăm Gia Viễn, thăm cầu Bo cùng Nội
Con nào biết đường về giờ xa lối
Nội xa rồi! Ai sẽ dẫn con theo...

--------

(1) Gia Viễn (Ninh Bình): quê nội của Bà nội.
(2), (3) Cầu Bo (Thái Bình), Chùa Keo (Thái Bình): quê ngoại của Bà nội.
 
Hà Nội, 26 tháng 10 năm 2024
Đặng Xuân Xuyến

VỀ ĐỘNG HOA VÀNG NGỒI VỚI PHẠM THIÊN THƯ – Thơ Châu Thạch


   
                          

Theo ông về Động Hoa Vàng
Nhắm con mắt lại thấy nàng Ngọ xưa
Thấy con đường Ngọ về trưa
Thấy tà áo Ngọ gió đưa trong chiều.
 
Theo ông về động cô liêu
Hoa vàng đâu nữa, tiêu điều chốn xưa
Ông ngồi đã thấy Ngọ chưa?
Tôi ngồi thấy Ngọ gió mưa cuối đường!
 
Nhắm con mắt lại mà thương
Tháng năm dày dạn, phong sương đã nhiều
Một thời trai trẻ để yêu
Ai mà không Ngọ, không Kiều trong tim
 
Bên ông tôi lại đi tìm
Nhắm con mắt lại mò kim dưới dòng
Con sông ký ức còn trong
Ngọ ơi bóng nguyệt vẫn nằm, nguyệt đâu?!
                         
                                                Châu Thạch

Thứ Ba, 22 tháng 10, 2024

BÀ ƠI !, GỬI BẦY CHIM DƯỚI MÁI HIÊN – Thơ Tịnh Bình


   


BÀ ƠI !
 
Thềm rêu giếng nước cầu ao
Vẫn xanh xanh mướt dây trầu bà ơi!
Bờ rào nhớ giậu mồng tơi
Thì thầm lá nõn khoảng trời ấu thơ
 
Tiếng chim rộn buổi tinh mơ
Bà ngồi tóc trắng bạc phơ thật hiền
Cau tươi trầu thắm nên duyên
Thị vàng cô Tấm ru miền tích xưa
 
Ngại gì mưa nắng nắng mưa
Trầu xanh như thể mến ưa tay bà
Mái hiên chái bếp vào ra
Khăn rằn nón lá dáng bà thân thương
 
Dòng dòng hoài niệm còn vương
Lạc năm tháng cũ khói sương cay nhòe
Cau khô trầu héo ủ ê
Sao bà đi mãi chẳng về bà ơi...!?
 

MƯA ĐÊM – Thơ Lê Phước Sinh


   


MƯA ĐÊM
 
Tí tách từng giọt như rót Rượu,
môi mềm, ngã ngựa giữa trời khuya.
Để trút ào ào cho bầu bể,
lênh lang chí lớn, mộng giang hồ.
 
                             Lê Phước Sinh

NÓI VỚI PHỐ - Thơ Trần Mai Ngân


   


NÓI VỚI PHỐ
 
Phố à, phố ơi...
Trả tôi ngày hôm qua
Trên cánh môi mượt mà
Ru nhau trong mùa hạ
Vỗ về sang mùa thu...
 
Phố à, phố ơi...
Trả tôi lại bầu trời
Biếc xanh lời hò hẹn
Dẫu không là trọn vẹn
Vẫn tràn đầy trong tôi
 
Phố à, phố ơi
Hôm nay đã xa xôi
Bằng những bước đơn côi
Nụ cúc vàng mùa cũ
Choá ngời trong mắt tôi...
 
Phố à, phố ơi...
Tôi... vết thương mưng mủ
Trong lòng vẫn y nguyên
Đem xuống cõi vẹn tuyền
Nụ cười xưa rất xa...
 
Trần Mai Ngân

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2024

CHUYỆN LẠ VỀ ĐẶT TÊN – Đặng Xuân Xuyến



                                   (Chuyện của nhà mình)
 
Mẹ đặt tên chị cả là Dung, bác (anh ruột của bố) đổi tên là Dỡ vì: "Bố nó tên là Dực thì nó tên là Dỡ". Sợ bố buồn nên mẹ không trái ý bác.
 
Rồi sinh anh trưởng, mẹ đặt tên là Tuấn, bác (anh ruột của bố) lại đổi tên vì: "Rực Rỡ thì phải Sao" (quê mình phát âm lẫn lộn mấy từ này). Vì không muốn bố buồn, mẹ lại lần nữa không cãi bác.
 
Đến đận sinh mình, Mẹ đặt tên là Xuân, bác (anh ruột của bố) dứt khoát quan điểm: "Đã Rực Rỡ Sao rồi thì phải là Vàng". Mẹ không nhất trí vì "tên đó xấu, lớn lên cháu nó dễ bị bạn bè trêu chọc, tổn thương". Bố cười với bác: "Hai cháu lớn bác đã đặt tên rồi. Thằng cu này, bác để mẹ cháu đặt tên cho cháu". Bác dỗi, không nói chuyện với bố đến mấy tháng.
 
Tưởng tên Xuân sẽ thành tên gọi chính thức của mình nhưng đến năm lên 5 tuổi, bà mợ (mợ của mẹ) thấy mẹ nhắc: "Xuân chào bà đi con!" thì mắng mẹ “dám lấy tên cụ của cậu đặt tên cho con”. Mẹ xin lỗi bà vì không biết có kỵ tên là Xuân nên "nhờ bà thay tên cho cháu". Bà chốt: "Anh nó tên là Xao thì nó tên là Xuyến". Thế là tên Xuyến theo mình đến giờ.
 
Rồi, sau khi mẹ sinh mình 2 năm, mẹ sinh thêm em gái, đặt tên là Nhung, không có ai ý kiến này kia về tên của em cả. Bố yêu em lắm, vì em đẹp nhất trong 4 đứa con. Tiếc là năm em 3 tuổi đã bỏ bố mẹ mà đi. Mẹ ngất lên ngất xuống ngày em mất. Bố đấm ngực kêu trời khi mất em. Có lẽ em mất là để đổi mạng sống cho mình vì cũng vào năm đấy, mình bị nhiễm trùng rồi "chết lâm sàng". Lúc hạ huyệt, mẹ nhất quyết không cho hạ huyệt, cứ một hai: "Con tôi còn sống! Con tôi còn sống!". Để xác thực với mẹ là "cu Xuân đã chết", mọi người "mở linh cữu" và giật mình khi thấy "cu Xuân" thoi thóp thở.
 
Chuyện lạ không chỉ ở chuyện mình sống lại vì tình yêu của Mẹ, mà lạ thêm ở chuyện đặt tên: 3 đứa lớn, khi mẹ đặt tên đều bị họ hàng phản đối, rồi buộc phải thay tên thì cứ "phởn phơ" sống, mặc giông bão cuộc đời xô đập, còn đứa út khi mẹ đặt tên, họ hàng không ai phản đối thì mới 3 tuổi đã bỏ bố mẹ mà đi.
 
Chỉ là kể lại chuyện lạ về đặt tên của nhà mình mà khóe mắt thấy cay cay.
 
                                                          Hà Nội, 29 tháng 04 năm 2020
                                                                    Đặng Xuân Xuyến

MÙA THU GỬI ANH… - Thơ Trần Mai Ngân


   

 
Anh! Mùa Thu mây trắng đã bay về
Em như chiếc lá vàng những ủ ê
Vụng về, vụng về… từ chối lời yêu
Dù biết hối tiếc sẽ nhiều… nhiều lắm!
 
Anh!
Mùa Thu nhuộm vàng cả chiều mê đắm
Và khi không còn gửi lời tin nhắn
“Anh - cơm trưa cá kho, canh rau đắng
Em ăn gì… nhớ vui vẻ nhiều nghe…!”
 
Trái tim em đàn bà nên rất nhẹ
Sẽ xáo trộn và bộn bề bởi nhớ
Hãy để yên cho mùa Thu qua cửa
Làm mây bay… bay mãi chẳng quay về
 
Anh! Giữ lại đi những nỗi đê mê
Đừng cột chặt để em vào ảo tưởng
Thu đến rồi đi không cầu, không cưỡng
Em là Thu… anh mây trắng qua trời!
 
                                  Trần Mai Ngân

THÀNH NGỮ BỊ HIỂU SAI HƠN MỘT NGÀN NĂM QUA – Đỗ Chiêu Đức


Trang Tử với Tề Vật Luận
                       
Trong văn học cổ Trung Hoa, thành ngữ đánh giá phẩm bình cao nhất về dung mạo của nữ giới là "Trầm Ngư Lạc Nhạn, Bế Nguyệt Tu Hoa 沉魚落雁,閉月羞花" mà ta thường nói một cách nôm na là "Cá lặn chim sa, Nguyệt thẹn hoa nhường". Chỉ cần nhắc đến câu nói nầy thì tự nhiên mọi người đều nghĩ ngay đến bốn người đẹp cổ điển "Tứ Đại Mỹ Nhân 四大美人" là : Tây Thi 西施、Vương Chiêu Quân 王昭君、Điêu Thuyền 貂嬋、và Dương Ngọc Hoàn 楊玉環 (Dương Quý Phi).Với lý giải thường thấy như sau :
 

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2024

HỒ DZẾNH VÀ CHÂN TRỜI CŨ – Vũ Thư Hiên


Hồ Dzếnh - ảnh tư liệu.
 
Nhà văn Thanh Châu có một giang sơn riêng – một gác xép bằng gỗ ghép giống hệt gác xép của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái, người mà chúng tôi đặt cho ông một biệt hiệu tếu: “Ông Giê Su khốn khổ ở phố Hàng Thuốc Bắc”. Cao, gầy, xanh, với những nét sắc như vạc bằng rìu trên mặt, nhìn anh tôi gặp một bản sao tượng Chúa Chịu Nạn. 
 
Thời ấy nhiều nhà có thứ gác xép như thế. Nó tăng diện tích ở không nhiều, nhưng tạo ra một mảng riêng tư. Gác xép của Thanh Châu là phòng văn của ông, cũng là chỗ ông tiếp bạn, người nhà không hề lai vãng.
 
Để lên cái gác xép ấy phải leo một cái thang dựng ngược, bám cứng vào hai thành lung lay của nó mà nhích từng bước mà chui lên.
 

ĐAU QUÁ ĐÒN HẰN RÁT HƠN LỬA BỎNG – Thơ Trần Vấn Lệ


 

 
Mạc Đỉnh Chi bực xé bức tranh
vẽ con chim sẻ đậu trên cành
cành tre biểu tượng người quân tử
chim sẻ đời coi đứa tiểu nhân!
 
Câu chuyện ngày xưa bên bữa tiệc
tưởng đùa mà triết lý cao sâu!
người Tàu đã hiểu người dân Việt:
yêu nước tâm can, cả cái đầu!
 
Đọc Sử, chúng TA không để ý,
học chơi và hiểu chỉ sơ sơ!
Văn xuôi, đọc đấy, câu nào nhớ?
đời nối tiếp đời cứ chuộng thơ!
 
Nguyễn Khuyến bực mình nên hạ bút
hai câu đủ giết hết người TA:
"Sách Vở Ích Gì Cho Buổi Ấy?
Xiêm Y Thêm Thẹn Cái Thân Già!"
 
Một ông Quan Bự vừa lên báo:
Lên Xuống Nhịp Nhàng, giỡn mặt chăng?
Uốn lưỡi bảy lần đau cái miệng!
Phát Ngôn Bừa Bãi Mới Là Quan?  (*)
 
                                   Trần Vấn Lệ
 
(*) bài báo đăng trên báo Đảng TA: 
https://thanhnien.vn/co-len-co-xuong-dan-thanh-van-hoa-viec-binh-thuong-trong-cong-tac-can-bo-185240709095333745.htm

THƠ 1-2-3 CỦA TRẦN MAI NGÂN


  

 
Khi em nhìn anh
Là em đang ôm anh bằng đôi mắt
Đôi mắt nồng nàn, đắm say và chìm sâu
Có lẽ tình yêu chân thành là vậy - sẽ bền lâu
Không cần nói, không cần dang đôi tay
Mà em vẫn cảm nhận từ anh - một bờ vai ấm!
 
                                                 Trần Mai Ngân

KHI BÉ ĐẾN - Nhạc Khê Kinh Kha



Bài thơ BÉ Và QUÊ HƯƠNG ANH của Khê Kinh Kha đã được GS Nguyễn Thanh Chí tại Đại Học San Jose State, CA, chọn dạy trong Chương Trình Vietnamese Culture từ hơn 5 năm nay.
Bài thơ cũng được chính tác giả Khê Kinh Kha soạn thành ca khúc KHI BÉ ĐẾN.

             


BÉ VÀ QUÊ HƯƠNG ANH
 
này bé hỡi, chiều nay trời lành lạnh
ở phương này anh nhớ một quê hương
bé đừng quên, chiều nay mình đã hẹn
anh sẽ ngồi kể hết chuyện quê anh
 
khi bé đến, nhớ mặc áo dài xanh
như mầu xanh của lúa mạ lên mầm
như mầu xanh của rừng thông Đà Lạt
áo bay mềm như dòng nước Cửu-Long
 
khi bé đến, nhớ để tóc xoã dài
xõa dịu dàng như liễu rủ ngang vai
xõa trong anh bóng tre già quê ngoại
xoã hương tình bao ruộng lúa Đồng-nai
 
khi bé đến, nhớ đừng thoa son nhé
để nắng chiều ửng đỏ nét môi thơm
để chiều nay mặt trời không ngủ sớm
như những chiều nắng phủ dãy Trường-sơn
 
khi bé đến, nhớ đừng thoa hương phấn
để hương trinh ngào ngạc gập vào hồn
như cúc vàng bên thềm xưa Vỹđạ
ngát hương nồng bên dòng nước sông Hương
 
khi bé đến, nhớ đừng mang kính mát
để trời xanh rơi rớt vào mắt trong
để anh thấy biển Hội-An, Đà-Nẵng
bãi cát dài sóng vỗ đến Nha-trang
 
khi bé đến, nhớ bước đi nhè nhẹ
để lòng anh không xao động nổi hờn
vì anh vẫn thấy hoài trong giấc mộng
phố Sài-gòn, Hà-nội, Huế buồn tênh
 
khi bé đến, đừng hôn anh bé nhé
hãy để dành hôn mẹ Việt Nam ta
mẹ Việt Nam bàn tay còn chai đá
nụ hôn nào sẽ xóa dịu lòng me
 
khi bé đến, nhớ cười vui bé nhé
để lòng anh như pháo nổ đầu xuân
anh sẽ ngắt cánh mai vàng vừa nở
tạ ơn đời và tổ quốc mến thương
 
                    KhêKinhKha
              (Trích tập thơ Tỏ Tình)