BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 30 tháng 12, 2019

NÔM NA LÀ CHA MÁCH QUÉ - Tuệ Chương Hoàng Long Hải


            
                  Tác giả Tuệ Chương Hoàng Long Hải


           NÔM NA LÀ CHA MÁCH QUÉ

Nhân dịp“Viện Việt Học” vừa cho xuất bản “Tự Điển Chữ Nôm Trích Dẫn”
                                                         
Lời nói đầu:

Khi còn ở trong nước, tôi có định kiến với những người trẻ lớn lên ở hải ngoại. Họ học ở nhà trường Âu Mỹ, nơi có bết bao nhiêu cái hay cái đẹp để tìm hiểu. Chỉ nói riêng các nhà văn Pháp trong “Thế Kỷ Ánh Sáng” cũng quá đủ cho những ai muốn tìm hiểu về dân chủ, tự do, nhân quyền, cũng như học thuật, tư tưởng hiện đại. Ở Mỹ, đọc Jack London, ai không say mê. Còn nói tới John Steinbeck hay William Faulkner, Hernest Hemingway, những nhà văn lớn được giải Nobel, với bao nhiêu tác phẩm của họ, chỉ mới đọc thôi, cũng đủ “mệt”, nói chi tới những công trình nghiên cứu về họ, bỏ thì giờ học và nghiên cứu về họ thì coi như mất hết cả một thời mê đọc sách, nói sao cho hết. Vậy mà khi tới trại tỵ nạn, tôi suýt giật mình vì một bản tin nhỏ đăng trên tời “Diễn Đàn Tự Do” xuất bản ở Virginia, về một cô sinh viên đang chuẩn bị luận án tiến sĩ . Cô ta dự tính về Việt Nam để nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm cho luận án ấy. Dưới con mắt của Công An [], có thể họ cho rằng cô nầy chẳng nghiên cứu gì hết, chỉ là nại cái cớ để về Việt Nam với sứ mạng nào đó do CIA giao phó.
Tôi không nghĩ như vậy. Văn học cổ Việt Nam, tuy chịu ảnh hưởng văn học Tầu khá đậm nhưng không phải là không có những cái đặc sắc của nó. Thậm chí còn hay hơn cái gốc mà nó chịu ảnh hưởng.
Người Việt Nam học cổ văn, ít ra, người ấy cũng có đọc truyện Kiều. Có người mê Kiều là đằng khác. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm chữ Nôm có nguồn gốc bên Tầu viết bằng chữ Hán, nhưng truyện Kiều của tay hay quá, hay hơn truyện Kiều của Tầu nhiều lắm, coi như một biểu tượng đặc sắc của văn học Việt Nam, có thể góp mặt với các tác phẩm nổi tiếng khắp năm châu bốn biển. Trong khi đó truyện Kiều của Dư Hoài bên Tầu thì chẳng ai đánh giá cao. Tỳ Bà Hành cũng vậy. Không thiếu người “mê” Tỳ Bà Hành. Theo nhiều nhà Nho thì Tỳ Bà Hành chữ Nôm của Phan Huy Vịnh hay hơn Tỳ Bà Hành chữ Hán của Bạch Cư Dị khá xa. Thế hệ ngày nay chịu ảnh hưởng văn học Âu Mỹ khá đậm,, nhứt là văn học Pháp, không thiếu người bắt chước, mô phỏng, dịch hay “chạy” theo, cũng “dịch hạch”, cũng “nôn mửa”, cũng “phi lý” nhưng xem ra các “đệ tử” bên ta thua “sư phụ” bên Tây nhiều lắm, không như người xưa, có theo đó mà vượt qua đó. Đủ biết chúng ta cần học tổ tiên ta thêm nhiều hơn nữa, làm sao để như người xưa, vượt qua những khuôn vàng thước ngọc do người đi trước đã bày ra.
Tôi từng có cái may mắn mười năm dạy cho học trò những tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Thánh Tôn, Đoàn Thị Điểm, Ôn Như Hầu ở các lớp Đệ Ngũ và Đệ Tam, nên vì chén cơm mà cố tìm hiểu các tác giả nầy.
Cái đặc sác bậc nhứt trong thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là “vô vi” của Lão. “Vô vi” là không làm cái gì trái với đạo Trời, với thiên nhiên: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.” Về ăn thì, mùa nào, trời cho cái gì, ăn cái đó, không bày biện phức tạp, cầu kỳ. Về chơi “Xuân tắm hồ sen hạ tám ao” thì chính là điều tự nhiên theo thiên nhiên vậy. Nguyễn Bỉnh Khiên là bậc “đạt nhân quân tử”, khi gặp thời thì giúp vua trị nước, gặp lúc nịnh thần lông hành thì cáo quan về “ngao du sơn thủy”, không vì cái công danh mà ràng buộc thân mình. Chưa kể khi nói tới Trạng Trình mà không nói tới “Sấm Trạnh Trình” thì sự thú vị mất đi nhiều lắm.
Bản tin trên tờ “Diễn Đàn Tự Do” ám ảnh tôi 15 năm, nhất là bây giờ xuất hiện nhều bài viết bàn về chữ Nôm trên các trang Web. Chữ Nôm là chữ của người Việt Nam, nhưng từ khi có chữ Quốc ngữ, các tác phẩm chữ Nôm được viết lại bằng chữ Quốc ngữ, khiến có người quên mất, tưởng như không có sự xuất hiện của chữ Nôm một thời gian dài trong lịch sử văn học nước ta. Do vậy, tôi thấy việc nghiên cứu chữ Nôm là cần thiết. Văn học chữ Nôm là một nền văn học lớn của người Việt Nam, cần tìm hiểu lại từ đầu. Đọc nó, những bài thơ như “Vua dụ Vương Tường gả cho chúa Thuyền Vu”, “Vua Trần Trùng Quang tiễn Nguyễn Biểu đi sứ” hay bài văn Nôm đầu tiên, bài “Văn Tế Cá Sấu của Nguyễn Thuyên”… sẽ thấy rằng, cách nay cả ngàn năm mà sao văn thơ chữ Nôm hồi ấy hay như thế!!!!
                                              Tác giả Tuệ Chương Hoàng Long Hải

Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2019

TÁC GIẢ NGUYỄN KHÔI VỚI “BÀNG GIA VỌNG TỘC” - Phạm Cao Phong


     


     TÁC GIẢ NGUYỄN KHÔI VỚI “BÀNG GIA VỌNG TỘC”
                                                                                Phạm Cao Phong

Người Việt vốn kiệm lời khen. Bây giờ còn tệ hơn, “khen cho mày chết”, khen dìm hàng. Nhà văn lại càng kẹo, viết cho ai một dòng đã khó, viết một quyển sách về ai thì đếm trên đầu ngón tay. Đời vốn có câu: “Văn mình, vợ người”. Vì vậy, khi cầm tập ba “Bàng gia vọng tộc” trong chùm sách bốn tập gồm đến hơn 900 trang “Cổ Pháp cố sự” của nhà văn Nguyễn Khôi tôi thấy bất ngờ.

         
                                  Nhà thơ Nguyễn Khôi


CẢM ƠN VẦNG TRĂNG SÁNG, BẾN SÔNG MƯA - Thơ Nguyễn Kim Hương



NGUYỄN KIM HƯƠNG
Sinh năm 1985    
Quê quán: An Biên, Kiên Giang
Hiện nay đang dạy tại trường THCS Nguyễn Trãi, TX Ngã Bảy, Hậu Giang.     
Hội viên Hội VHNT Tỉnh Hậu Giang
ĐT: 0975.204.678  


BẾN SÔNG MƯA

Một ngày sông lạnh bến mưa
Lòng xa xôi lắm người chưa trở về

Lục bình nở tím cơn mê
Tàn thu có ngọn tóc thề nhớ ai

Buồn như hoa cỏ vừa phai
Bàn tay nào vẫy tàn phai dưới đồng

Hoa bần thờ thẩn bên sông
Tưởng nghe tóc trắng rụng trong đêm dài

Người còn gót rỗ trần ai
Dặm khuya chuông đổ bên ngoài sông mưa.

                                   Nguyễn Kim Hương


   

Thứ Bảy, 28 tháng 12, 2019

NÀNG, XƯA VÀ NAY - Thơ Thủy Điền


   


NÀNG, XƯA VÀ NAY

Ngày xưa, người đẹp, dễ thương
Cái ăn, nết ở trăm đường vẹn trăm
Lắm chàng để ý thương thầm
Muốn thưa phụ mẫu, cưới nàng làm thê
Trăm năm kết nối duyên thề
Răng long, đầu bạc cùng kề bên nhau

Ngày nay chẳng biết thế nào
Sắc, hương gấp vạn mà sao đặng đừng
Bao chàng ngơ ngác, dửng dưng
Muốn trao tim nhỏ, lại dừng. Xin thôi

Ngày xưa nàng đến với người
Áo hoa, hoa áo đẹp tươi một màu

Ngày nay, ngày trước, ngày sau
Nàng thay lắm áo, áo nào cho ta

                                Thủy Điền
                               27-12-2019

Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2019

TIẾNG VIỆT TA ƠI! - Thơ Văn Thiên Tùng


    


TIẾNG VIỆT TA ƠI!
(Kỷ niệm hơn 3 Thế kỷ phôi thai
& 100 năm hình thành Chữ Quốc ngữ).

Ngàn năm Bắc thuộc quyết cùng nhau
Sáng lập chữ Nôm cố thoát Tàu
Bấy bận cách tân thời đại trước
Bao lần thay đổi những triều sau
Sỹ phu cân ghép âm hoàn thiện
Vương Chúa đồng so nghĩa thục làu
Bộ nét loại dần thanh tự Hán
Thịnh hành Quốc ngữ lắm công trau…

Thịnh hành Quốc ngữ lắm công trau
Ký tự La - tinh dễ thuộc làu
Từ điển Việt - Bồ… dần chuẩn trước
Tiếng nhà khai mở tiếp theo sau
Chung lòng hợp soạn An Nam chỉnh
Hợp sức cách tân loát Hán Tàu
Đọc thạo viết thông tròn thế kỷ
Song đồng Âu - Á tiến bên nhau.

             Mai Vân Văn Thiên Tùng
                        26/12/2019

TÌNH XUÂN YÊU THƯƠNG - Thơ Nhật Quang


     


TÌNH XUÂN YÊU THƯƠNG

Xuân yêu thương, tình Xuân đẹp quá!
Lộc mơn xanh, chồi lá non tơ
Dặt dìu ru khúc nhạc mơ…
Đu đưa gió thoảng câu thơ ngọt mềm

Khúc tháng Giêng êm đềm hơi ấm
Gió lay cành liễu đẫm sương mai
Xuân mơ trở giấc đêm dài
Vội khoe áo mới trang đài làm duyên

Nắng xuân hồng trải nghiêng lối nhỏ
Bước em về trước ngõ đơm hoa
Tươi xinh dáng lụa ngọc ngà
Mắt, môi lúng liếng, điệu đà thanh tân

Áng mây bồng gió lâng lơi lả
Bướm, ong vờn nghiêng ngả làn hương
Tơ hồng dệt mộng vấn vương
Đưa tay em hấng niềm thương Xuân ngời.

                                               Nhật Quang

TA VÀ NGƯỜI… - Thơ Phan Quỳ


   
                             Nhà thơ Phan Quỳ


TA VÀ NGƯỜI…

Ta yêu người độ lượng,
Người yêu ta từ tâm
Ta vào đời ngơ ngác
Với bước chân tần ngần.

Ta quên đời mỏi mệt,
Người xa cõi trần ai
Đêm không trăng vẫn sáng
Ngày không nắng vẫn vui.

Mùa đi đâu rất vội
Ta không chờ đợi tuổi
Người chẳng biết tháng năm
Trôi qua những thăng trầm.

Ai hay phút tình cờ
Đã đi vào muôn thuở
Ai ngờ những vu vơ
Bỗng trở thành duyên nợ...

                       Phan Quỳ

Thứ Năm, 26 tháng 12, 2019

TỨ TUYỆT THI SAY - Ái Nhân


       
                                Nhà thơ Ái Nhân 


SAY

Uống nào cho rượu say ta
Cho bao mỹ nữ kiêu sa phải lòng
Cho mơ con gái không chồng
Hân hoan lên đỉnh phiêu bồng… dâng hoa


THI SAY

Khi say thăng chín tầng mây
Gạ Ngọc Hoàng rượi vơi đầy hàn huyên
Khi buồn rơi xuống Cửu Tuyền
Chén thù chén tạc rủa nguyên Diêm Vương


CHỞ MƠ

Nghiêng giời hớp một ngụm trăng
Liêng biêng say gạ chị Hằng ngỏ yêu
Trần gian có một gã liều
Xé thơ yêu dán cánh diều… chở mơ


UỐNG NHAU

Uống nào em chén hương hoa
Tinh khôi trinh trắng kiêu sa hồn quỳnh
Gió trăng say lả lơi tình
Đêm mơ ngơ ngất ta mình …uống nhau


RƯỢU MƠ

Trăng sóng sánh rắc vàng nỗi nhớ
Gió la đà ru mộng cỏ xanh
Liễu buồn chảy xuống mong manh
Hồn thơ cất lấy chưng thành rượu mơ


NHẮM CƯỜI

Nghiêng hồn đổ khát vào chai
Đêm tu ừng ực khôn ngoai nhớ người
Thơ yêu uống mắt em cười
Ngất ngơ say nhắm với mười ánh trăng

                                             ÁI NHÂN

PHONG THỦY LÀ CẦN THIẾT TRONG KIẾN TRÚC NHÀ Ở - Ái Nhân


             
                            Thầy phong thủy – Bùi Cao Thế
                              (Ngọc lâm – Long biên- HN)
                                         ĐT: 0984470914


PHONG THỦY LÀ CẦN THIẾT TRONG KIẾN TRÚC NHÀ Ở

“Tậu trâu lấy vợ làm nhà cả ba việc ấy thật là khó thay”
Câu ngạn ngữ của người xưa quả là không sai nếu ta thật sự chú tâm về nó.
Tôi muốn bàn với bạn độc giả về vấn đề làm nhà.
    Làm nhà như thế nào cho phù hợp với phong thủy để chúng ta có một nơi cư ngụ an toàn thuận lợi phù hợp với cung mệnh gia chủ đó là một trong những yếu tố cấu thành của thành công và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình hay một cơ quan, công ty nào đó.
  Chúng ta thường được nghe và có thể đã thấy có người làm nhà xong thì ăn lên làm ra, phát tài phát lộc, gia đình thuận hòa, con cái đỗ đạt.
 Ngược lại có người làm nhà xong thì ốm đau bệnh tật, thất thế sa cơ, khuynh gia bại sản, tai ương tật ách…thậm chí không được ở nhà mới.

Thứ Tư, 25 tháng 12, 2019

VÀI LỜI VỀ BÀI “VỤ ÁN ĐẠO Ý THƠ” CỦA ÔNG NGUYÊN LẠC - Đặng Xuân Xuyến

Khuya 21 tháng 12.2019, bạn tôi điện bảo tôi vào facebook Nguyen Lac mà đọc “phản biện” của ông Nguyên Lạc về bài “Vài lời về mấy bài viết gần đây của ông Nguyên Lạc”. Tôi cười: - Quan tâm làm gì bạn ơi. Mà ông ấy chặn nick của tôi từ vụ “Thuyền Neo Bến Lạ” thì đọc sao được? Bạn tôi cười: - Thấy gõ “mời”cả Đặng Xuân Xuyến tranh luận cơ đấy. Tôi tủm tỉm cười: trò gì vậy? Rồi thử vào nick Nguyên Lạc thì thấy hiện lên:

                   
                        Tác giả bài viết Đặng Xuân Xuyến


“VỤ ÁN ĐẠO Ý THƠ

Dẫn nhập:

Chủ ý bài viết này là để giải thích rõ vụ án “đạo thơ” của thi sĩ NP Phan - tên FB: Phan Phú - đưa ra. Hình như ông cũng là thầy giáo, nên chắc đã từng dạy “đạo đức”, dạy “ngôn lời chân thật” cho các học sinh. Phần phản hồi đến ông Đặng Xuân Xuyến (ĐXX) chỉ là phụ, nên chỉ ghi sơ lược vì bài viết của ông không có tính văn học, chỉ là “bài chửi mắng”, mạ lị cá nhân không đáng quan tâm.” (Nguyên Lạc)

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2019

BÀI THƠ TỨ TUYỆT VÔ ĐỀ - Nguyên Lạc


             
                        Tác giả bài viết Nguyên Lạc


            BÀI THƠ TỨ TUYỆT VÔ ĐỀ
                                                                            Nguyên Lạc    

VÀI HÀNG TIỂU SỬ

1. HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SĨ

 a.
- Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ tục danh Phạm Văn Thương sinh ngày 15 tháng 2 năm 1943 tại Paksé, Lào. Thầy quê tại Quảng Bình, Việt Nam, là một học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với Chính phủ Việt Nam. Ông hiện là Đệ nhất phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. 
- Thầy thông thạo tiếng Trung Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Thầy được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật. [Viết theo Wikipedia]


         
                                      Thiền sư Tuệ Sĩ

b.
TUỆ SỸ, MỘT THIÊN TÀI CỦA VIỆT NAM :
Thầy xuất gia từ thuở còn thơ và sống ở Lào, làm chú tiểu Sa Di sớm chiều kinh kệ, công phu bái sám, đó là bổn phận của người làm điệu, trong nếp sống nhà chùa. Bằng bản chất thông minh, thiên tư từ thuở nhỏ, cho nên sau khi xuất gia, Thầy đã miệt mài học hỏi kinh điển, siêng năng nghiên cứu nghĩa lý đạo mầu.  Quí sư Lào sau một thời gian dạy dỗ, thấy được trí tánh thông minh của Thầy, chư sư Lào tự thắy không đủ khả năng dạy nữa, để không làm mai một thiên tư trác việt, trí tuệ tuyệt vời, các vị Bổn sư Lào đã gởi Thầy về Việt Nam, cho quí Hòa thượng tiếp tục hướng dẫn, dạy dỗ.

Thầy được đưa về Huế, cùng tu học với quí chư Tăng và thành đạt sở học một cách nhanh chóng. Do vậy, sau một thời gian tham học với chư Tổ Đức về phần kinh luật và chữ Nho, Thầy đã thông suốt và tự mình phát huy sở học mà không cần thầy dạy. Từ đó, Thầy tiếp tục vân du tham học ở chư bậc kỳ tài, hữu danh đương thời, lần hồi Thầy đã vào Sài Gòn để tiếp tay xây dựng và giáo dục đàn em, học trò của mình. Là vị giáo sư gương mẫu, nồng cốt của Đại học Vạn Hạnh, mà cứ mỗi lần gặp nhau thăm hỏi, những người đồng nghiệp đều gọi Thầy là "chú Sỹ" vì Thầy còn quá trẻ.

Thầy phụ trách dạy tại Đại học Vạn Hạnh chương trình Triết học Tây phương, văn học Đông Phương, luận đề Phật giáo : triết học Tánh Không, Trung Quán luận, A Tỳ Đạt Ma, đại cương Thiền Quán... Mặc dầu ở vào lứa tuổi đôi mươi, nhưng Thầy đã đóng góp một phần không nhỏ trong nền văn hóa, giáo dục của nước nhà và Thầy đã xuất sắc hơn trong lãnh vực ngôn ngữ : sinh ngữ và cổ ngữ. Thầy tự học, rèn luyện lấy chính mình vì vậy mọi người ai cũng kính mến, thán phục và có nhiều bạn vong niên dưới mái trường Đại học Vạn Hạnh.
                                                          [Viết theo Thích Nguyên Siêu]

2. THI SĨ BÙI GIÁNG

Thi sĩ Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.mất ngày 7 tháng 10 năm 1998 tại Sài Gòn. Ông  là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng...Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa nguồn.
Ông là nhà trí thức lớn, là giáo sư đại học, là học giả, dịch giả, là triết gia, là thi sỹ, là phù thuỷ ngôn ngữ, là kẻ lãng du thiên tài không màng thế sự...

         
                              Thi sĩ Bùi Giáng


BÀI THƠ TỨ TUYỆT XƯA

Các bạn thơ chắc ai cũng biết bài tứ tuyệt rất nổi tiếng của Trương Kế (nhà thơ Trung Quốc, thời Đường Túc Tông). Đây là bài thơ.

PHONG KIỀU DẠ BẠC

Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hà San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
                                           Trương Kế

NỬA ĐÊM ĐẬU BẾN PHONG KIỀU

Trăng tà tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
                              Nguyễn Hàm Ninh dịch

(Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Hàm Ninh, thường bị nhầm là bản dịch của Tản Đà - Wikipedia)


BÀI THƠ TỨ TUYỆT NAY

Theo tôi, bài tứ tuyệt VÔ ĐỀ sau đây cũng hay không kém.
Lạ lùng thay, bài tứ tuyệt này được hai người nổi tiếng làm:  Đó là thầy Tuệ Sỹ và thi sĩ Bùi Giáng. Thầy Tuệ Sỹ làm hai câu đầu, Bùi Giáng tiếp theo hai câu cuối.
Đây là bài tứ tuyệt của hai người:


VÔ ĐỀ

 Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
 Hiện tiền vi liễu lạc hoa phi.  
                                     (Thầy Tuệ Sỹ)

 Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ, 
 Trí hải đa tàm, trúc loạn ty.          
        (Thi sĩ Bùi Giáng tiếp thơ)

Dịch thơ:

Tôi tạm dịch thoát như sau:

Đêm sâu bóng nghiệp theo làn gió
Rõ ràng làm lạc liễu hoa bay
Tâm sự nhẹ dâng cùng lệ khổ
Biển học thẹn lòng trúc tơ  xoay (*)
                              (Nguyên Lạc)

***
Tính nhân bản là một thuộc tính của thơ hay, nước nào cũng có, chỉ có trước hay sau thôi. Nước người có thì nước Việt chúng ta cũng có. Hãy trân trọng cái hay cái đẹp của tiền nhân, của đất nước.

                                                                                 Nguyên Lạc     
.................

Chú thích:

(*) -  Rừng trúc như tơ rối: không thâu đắc được.
                                                  (Trần Việt Long)

- Trí hải:  biển hiểu biết (biển học), nhưng cũng là Trí Hải, tên của một ni sư. Thi sĩ Bùi Giáng  muốn đùa giỡn với thầy Tuệ Sỹ

 [Có tham khảo các bản dịch: Hoàng Quốc Bảo, Trần Việt Long - trang art2all]

@ Phần phụ lục

1. Tuệ Sỹ

Sẵn đây, Nguyên Lạc xin giới thiệu thêm bài thơ KHÔNG ĐỀ của thầy Tuệ Sỹ làm sau này. Bài thơ này khác với bài thơ tứ tuyệt Vô Đề ở trên, gồm 3 khổ như sau:

KHÔNG ĐỀ

Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn 
                                               Tuệ Sỹ

2. Bùi Giáng

Nguyên Lạc cũng xin giới thiệu thêm bài dịch thơ G. Apollinaire của trung niên thi sĩ Bùi Giáng. Bài thơ dịch nổi tiếng này đã được nhạc sĩ tài hoa Phạm Duy phổ nhạc: "Mùa Thu Chết". Bài này rất nổi tiếng trong thập niên 70 tại Sài Gòn, và gắn liền với tên tuổi ca sĩ Julie Quang.

LỜI VĨNH BIỆT

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…
                                         Bùi Giáng dịch

(“Ði vào cõi thơ”. Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigòn, Việt Nam.1969)

Nguyên tác:

L’ADIEU

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
                                     Apollinaire

ĐÂU CẦN CHỜ ĐẾN ĐÊM GIÁNG SINH PHẢI KHÔNG EM? - Thơ Nguyên Lạc


    
   


ĐÂU CẦN CHỜ ĐẾN ĐÊM GIÁNG SINH
PHẢI KHÔNG EM?

1.
Đêm Giáng Sinh Chúa hiện xuống trần
mang niềm tin mới cho nhân thế: Công bằng. Bác ái
Có ích kỷ không em?
Khi anh không thích em bác ái
Em phải yêu thương riêng chỉ anh thôi!

Đêm đâu cần vọng về những tiếng chuông ngân
Khí em đến. ngàn tiếng chuông tình vang hồn anh ngây ngất
Đêm ngọt ngào như chiêm bao
như cổ tích
Đêm khát khao
Đêm huyễn mơ
em. bãi cát nhung êm đợi chờ
anh. nghìn sóng biển phủ tràn
những nụ hôn thân trầm hương ngát

Đêm. chỉ riêng anh và em
Vòng tay đan nồng ấm
vũ điệu Rumba mê đắm
hai thân người cháy bỏng quyện tan nhau

Đêm mang tin vui.
lời tình ca anh hát
ngợi ca thần tình yêu Cupid. em. bắn mũi tên vàng ngay tim. anh ngất
Nên suốt đời anh mãi vọng một phương

2.
Đâu cần chờ đến đêm Giáng Sinh đâu em!
để chuông ngân vang niềm tin mới
Bất cứ đêm quắt quay mong đợi
Em đến là đêm Giáng Sinh!

Hiện hữu em cứu rỗi đời anh!
Có tội lỗi lắm không?
khi nghĩ em là Chúa
mang tin mừng riêng chỉ anh

Cảm ơn em. suối tóc êm nhung
mật ngot môi cong
Và cảm ơn thân trầm
ngực rằm dâng hiến

3.
Đâu cần chờ đến đêm Giáng Sinh đâu em!
Ngàn nến hồng lấp lánh rạng tâm khi em đến
đêm nồng nàn đêm khát khao đêm mê đắm
Đâu cần chờ đến đêm Giáng Sinh phải không em?

                                                           Nguyên Lạc