BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2018

LAN MAN VỀ CÁC NHÀ THƠ HUY CẬN, XUÂN DIỆU, VƯƠNG BỘT... CÙNG CÁNH CÒ HAY CÁNH VỊT TRỜI - La Thụy


   

      LAN MAN VỀ CÁC NHÀ THƠ HUY CẬN, XUÂN DIỆU, 
      VƯƠNG BỘT... CÙNG CÁNH CÒ HAY CÁNH VỊT TRỜI

Rảnh, mình đọc bài Tràng Giang - thơ Huy Cận, lòng man mác cùng mây trời, hoàng hôn và chim chiều nghiêng cánh

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
                                              (Huy Cận)

Bất chợt liên tưởng mấy câu trong bài "Thơ Duyên" của Xuân Diệu

Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
                                 (Xuân Diệu)

Rồi lan man với lời bình thơ của Hoài Thanh:

“Từ cánh cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt hơn một ngàn năm và hai thế giới”  (Thi nhân Việt Nam)

“Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”
                                     (Vương Bột)


Ai đó đã dịch thành:

 (Chiếc cò cùng với ráng sa
 Sông thu cùng với trời xa một màu)

Và cứ thế lan man đến Đằng Vương Các Tự của Vương Bột. Ôi chao, cái ông thi sĩ thời Sơ Đường này, ông đã lưu dấu ấn lại trong truyện Kiều của Nguyễn Du qua một câu thơ điển tích thật hay:

“Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa”
                                         (Kiều)

Và trong một câu thơ điển tích khác cũng thật hay của Tô Đông Pha:

Thời lai phong tống Đằng Vương Các

Hai câu thơ điển tích của hai nhà thơ lớn ấy bắt nguồn từ giai thoại:
"Con của vua Cao Tông nhà Đường bấy giờ làm Thái Sử ở Hàng Châu, được phong là Đằng Vương, có dựng một cái gác bên sông Tầm Dương gọi là Đằng Vương Các. Lúc Diêm Bá Dư ra giữ chức Đô Đốc Hàng Châu, đặt tiệc tại gác Đằng Vương để thết tân khách. Muốn khoe tài chàng rể, bảo làm trước một bài tự, rồi mời tất cả các nhà quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự; và yêu cầu mỗi người làm một bài tự ngay bữa tiệc.
Vương Bột lúc bấy giờ, tuổi vừa 15, 16. Hay tin ấy, nhưng vì đường xá xa xôi có mấy trăm dặm, không đến họp được, lấy làm tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho thuyền khởi hành, và hôm sau tới Đằng Vương các vừa kịp lúc vào tiệc. Và một cuộc thi tài văn học xảy ra, bài Đằng Vương Các Tự đã xuất sắc đoạt giải”

           

Bài tự "Đằng Vương Các" viết theo thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển khó hiểu nhưng lời thì khá đẹp mà rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa lý và nhân vật ở quận, nơi xây gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.

Cuối bài, có 8 câu tuyệt diệu, nhất là 4 câu cuối:

        Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
        Vật hoán tinh di, không độ thu?
        Các trung đế tử kim hà tại?
        Hạm ngoại trường giang không tự lưu.

    Nghĩa:

       Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi,
       Mấy phen vật đổi với sao dời.
       Đằng Vương thuở trước giờ đâu tá?
       Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài.
                            (Tương Như dịch)

Trong văn nghiệp sáng rực của một cuộc đời ngắn ngủi, tác phẩm làm cho tên tuổi Vương Bột trở nên bất tử lại chỉ là hai câu thơ tả cảnh tuyệt bút, cùng một đoạn thơ tám câu ở cuối bài Đằng Vương Các Tự. Hai câu thơ tả cảnh tuyệt tác đó là:

“Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”

Hai câu thơ tuyệt bút ấy lại bị người đời sau cho là thừa chữ "dữ", "cộng" ("dữ, cộng" cùng nghĩa “với”,“cùng”).  Nếu bỏ hai chữ này thì càng tuyệt hơn, vừa gọn vừa thanh thoát, lại nhất khí:

 Lạc hà cô vụ tề phi,
 Thu thủy trường thiên nhất sắc.

Lạc hà là ráng chiều buông xuống, cô vụ tề phi là con vịt trời cô đơn đang cùng bay. Thu thuỷ là sông nước mùa thu, trường thiên nhất sắc là trời rộng mênh mông, chỉ có một màu.
Con vịt trời cô đơn này không lẽ cũng là chú Uyên Ương gãy cánh của Kahlil Gibran đang trải mối sầu lẻ bóng vào ráng chiều ?
VỤ (鶩) trong từ  Hán Việt là con vịt trời (dã áp  野 鴨). Khổ một nỗi, các dịch giả Việt Nam đã chuyển ngữ “cô vụ” là “Chiếc cò, cánh cò cô lẻ” nên gây nhầm lẫn trong trí nhớ của một số người, khi họ đọc câu thơ Hán Việt theo hồi ức, thành “Lạc hà dữ cô LỘ tề phi”. Vì LỘ  là con cò (Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất - Thơ Nguyễn Công Trứ).

Đằng Vương Các Tự là bài giới thiệu về Gác Đằng Vương, còn được gọi tắt là bài Đằng Vương Các.

Gọi như vậy để phân biệt với “bài thơ Đằng Vương Các”. Cái gọi là “bài thơ” Đằng Vương Các, thật ra chỉ là đoạn thơ cuối cùng trong bài Đằng Vương Các Tự. Tuy chỉ là một đoạn thơ, một bộ phận trong bài Đằng Vương Các Tự, nhưng 8 câu thơ cuối thật hay. Nếu tách riêng ra thì 8 câu thơ này là một bài thơ hoàn chỉnh. Vì vậy, nó được nhiều văn nhân thi sĩ tán dương và ngâm ngợi. Tám câu thơ cuối bài còn được đưa vào giảng dạy trong nhà trường và trở nên “bài thơ Đằng Vương Các” và cụm từ vật hoán tinh di ” (vật đổi sao dời) được sử sụng như thành ngữ. Mời thưởng thức!

ĐẰNG VƯƠNG CÁC

Đằng Vương cao các lâm giang chử
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
Họa đống triêu phi Nam phố vân
Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.

Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di kỷ độ thu
Các trung đế tử kim hà tại ?
Hạm ngoại Trường giang không tự lưu.

 DỊCH:

Gác Đằng cao ngất bãi sông thu,
Ngọc múa vàng gieo nay thấy đâu ?
Nam Phố mây mai quanh nóc vẽ,
Tây Sơn mưa tối, cuốn rèm châu

Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi,
Mấy phen vật đổi với sao dời.
Con vua thuở trước giờ đâu tá ?
Sông lớn hoài hiên luống chảy hoài.

                        TƯƠNG NHƯ dịch

Lan man rồi lại lan man, nhưng cũng đến lúc hết lan man…

                                                                             La Thụy

NGÀY VỀ QUÊ CŨ NGHE TIN CON SÁO NHỎ ĐÃ SANG SÔNG - Thơ Ngô Nguyên Nghiễm

Nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm có họ tên thật: Ngô Tấn Thiền. Sinh năm: 1944. Quê quán: Châu Đốc, An Giang
Tốt nghiệp Đại học Dược khoa Sài Gòn. Thơ văn được giới thiệu trên nhiều tạp chí văn chương trong và ngoài nước.
Chủ trương tạp chí và nhà xuất bản Khai Phá trước 1975. Hiện sống tại Sài Gòn.
Đã xuất bản riêng 14 tác phẩm, một số tác phẩm tiêu biểu: Người hành giả và khúc trường ca sinh tử (thơ, 1974), Hiến dâng cát bụi (thơ, 1989), Chớp bể mưa nguồn (thơ, 1992), Hoàng hạc (thơ, 2004), Trăm năm ngàn năm (thơ, 2008), Tác giả tác phẩm người đồng hành quanh tôi (6 tập)…

       

NGÀY VỀ QUÊ CŨ NGHE TIN
CON SÁO NHỎ ĐÃ SANG SÔNG
(Tặng Phạm Nhã Dự, Hà Thúc Sinh, Võ Thạnh Văn
Trần Yên Thảo, Lâm Hảo Dũng, Lê Quang Đông…)

Rồi gió đêm nay cũng thổi qua
Mon men khe vách bóng trăng tà
Có người lữ khách trăm năm trước
Lộn kiếp giang hồ chinh chiến xa
Góc nhỏ cờ tàn, vó ngựa hí
Gươm cùn treo ngược dưới phong ba…

Hình như nước mắt chảy đâu đây
Tịch mịch năm canh, lá rụng đầy
Khách vén hồn xưa cho thế sự
Nhìn vào giọt máu hóa sương bay

Thì ra, đá cũng hóa tâm hồn
Khơi dậy hoàng hôn thăm thẳm buồn
Một khối oan ương chưa rữa nát
Hiện lên mâm ngọc chén cường toan
Chẳng mong tẩy xóa lòng chung thủy
Chỉ đụt thời gian làm mỏi mòn
Cảnh đợi cảnh chờ, người bạc trắng
Ngàn đời con sáo cũng sang sông!

Ngàn đời con sáo xổ lồng thôi
Khách đốt đèn ma cháy lẻ loi
Soi suốt trăm năm cô độc quá
Một mình như một cánh sao rơi…

Mai sau ai đứng đợi chờ đây
Chờ sóng trường giang lớp lớp đầy
Chờ kẻ vô tình đong đáy mắt
Sót vài hình ảnh với bèo mây

Hôm nay khách trở lại thăm quê
Cảnh cũ người xưa như giấc mơ
Mấy đóa tường vi canh cánh nở
Mang theo hương lửa đời hoang sơ
Ngổn ngang phế tích thăng trầm quá
Vết nứt thời gian chẳng xóa mờ
Kẻ ở lạnh lùng ngồi hóa đá
Ngày về chim khách hót bơ vơ…

               Ngô Nguyên Nghiễm

Thứ Ba, 4 tháng 9, 2018

CHÙM THƠ THIỀN 1 - Thơ Chu Vương Miện


       


VÔ NGÃ

hiện tượng là vô ngã
sự vật là vô thường
buổi sáng hoa bụp nở
buổi chiều hoa bụp tàn
ngàn xưa đã như vậy
khởi thủy là chữ duyên
nơi Hà Nhai vãn độ
neo đó một con thuyền
nhổ neo là bến giác
nước chảy rửa ưu phiền
bao si mê sân hận
theo gió lộng từng cơn
vũ trụ là vô ngã
thân ta là vô thường


TRĂNG GIÀ

nhìn lên một mẩu trăng già
chú Cuội đứng hốt lá đa suốt ngày
bầy trâu con béo con gầy
con thời ăn lúa con ngây ngó nhìn
nhìn theo đồng lúc chiền chiền
bầy chim cũng họp chợ phiên tháng mười

CHÙM THƠ HUY UYÊN


       
                                Nhà thơ Huy Uyên


TÌNH VỀ QUẢNG -TRỊ

Mùa hạ đưa em về Dốc-Miếu
Lộ 1 quanh co cuối phố buồn
Năm xưa chiến-trường bom đạn nổ
Gió trên đồi bay tới Gio-Phong.

Em nghiêng tóc thả phía Gio-Linh
Nơi con sông chia hai miền ngày trước
Tiếng gọi người đi bỏ lại mối tình
Bao năm rồi không hề nói được.

Núi xanh mấy mùa tiêu Hướng-Hóa
Lao-Bảo mùa này biên-giới sương mây
Tím trái sim màu hoa rừng nở
Em con gái Brai năm rộng tháng dài.

Lên đồi Bến-Tắc đầy mộ nghĩa-trang
Linh-hồn lính điêu-linh hương khói
Lá xanh héo
trên cây còn lại lá vàng
Vĩnh-Trường chôn thây ngàn năm còn đó...

Khe-Sanh mùa này lạnh gió?
Sân bay Tà-Cơn máu lửa ngày xưa
Người Asoc ngồi quanh nấm mộ
Ở đó Làng Vây ai mãi trông chờ.

Em trao ai trái tim Dakrong
Nhịp cầu quanh co
tình treo đường 9 gởi
Giọng hát Vân-Kiều nước chảy qua sông

Người Pakô uống rượu ngồi ngó núi
Đường đất đỏ theo em về Mỹ-Thủy
Gởi con tim ở lại La-Vang
Đứng chạnh lòng chiều Thành-Cổ

Máu người xưa tuôn
đại-lộ kinh-hoàng.
Thạch-Hãn sông xuôi bến xóm Chài
Đêm đò đưa người sang Sắc-Tứ

Ngó lên Rockpile máu ai đổ từ lâu
Tiếng chuông Đông-Hà
chạnh lòng người cố-xứ.
Mênh mông nước trằm Trà-Lộc

Bước chân đi pha cát vùng đồi
Xanh mấy Trà-Trì thời (con gái) xanh tóc
Hải-Lăng hương tràm ngát một bờ vui.

Buổi sáng cà-phê Giọt-Thương-Huyền
Nhớ người bốn mươi năm xa khuất
Rượu cạn sầu rót chén Thủy-Gia-Viên
Thôi Quảng-Trị còn gì hay đã mất?  

Thương lắm hai bờ sông Thạch-Hãn
Đắng lòng người ngồi quán Sông Xanh
Nước xuôi về đâu đời lận đận
Về chi đây ngày tháng nao lòng!

                                   Huy-Uyên
                                  (QT.2016)

EM HÁT BÀI CA BÓI CÁ - Thơ Châu Thạch


       
               Nhà thơ Châu Thạch


EM HÁT BÀI CA BÓI CÁ
(Tặng Trần Mai Ngân)


"Anh là chim Bói Cá
Em là bóng trăng ngà"
Anh vớt nhầm tiếng ca
Để một đời thương nhớ.

Anh mộng điều cắc cớ
Em là khúc thụy du
Hai ta trong sương mù
Đêm lần tìm từng bước.

Trời không cho gặp được
Anh một đời khóc than
Em sáng như trăng vàng
Hát bài ca Bói Cá.

Thu vườn mình xác lá!
Xuân héo ngàn sắc hoa!
Đông lòng lạnh mưa sa!
Hè hồn anh ve nhớ!

Mùa Đông em than thở
Nơi anh đang vào hè
Còn mùa xuân nơi em
Chỗ anh ngừng tiếng ve...

Chúng mình cứ mãi xa
Cho lời ca nức nở
Những tình khúc Thụy du
Muôn đời làm bở ngở... *

                   Châu Thạch  

* Hai khổ thơ cuối (5-6) là lời recom của 
nhà thơ Trần Mai Ngân ở một STT trên facebook



Thứ Hai, 3 tháng 9, 2018

PHAN VĂN TRỊ, TÔN THỌ TƯỜNG - Thơ Chu Vương Miện


       

PHAN VĂN TRỊ

nước loạn
vua tù bị đày đi đảo quốc
nước mất
người khiếm thị
còn biết làm thơ yêu nước ?
đứa sáng mắt
làm việt gian hàng giặc
bồi tây ?
một lũ sĩ phu giả điếc giả ngây
một lũ trốn vào chùa tu quách
đất uôi là đất ?
-
chó chết để lại một bữa nhậu
rượu đế Cái bè, Cây lý
mỗi anh một xí
uống khơi khơi
bọn thời cơ đón gió trở cờ
chết êm ru
thua con chó chết
-
làm cái thân con kiến
bò lòng vòng trên vòng chén
bò hoài bò hủy chả tới nơi
phận con gà
vặt trụi lông
nằm trên lòng thớt
chờ một lúc
là rồi đời
khôn ngoan
bỏ tay vào túi chờ thời
mà thời nào
-
thơ văn
và nghệ thuật thời hại điện
quá dở
lý do giản đơn
là toàn dân quá khổ
quá vất vả
cơm không đủ nhai
áo không đủ mặc
có con ka'k
không được chơi ?
nội chiến từng ngày
chiến tranh từng ngày
không ai có thì giờ
đọc


ĐẠI MỘNG, BỌT DUYÊN, MỘT NGÀY NHÀ THƠ ĐI RỪNG - Thơ Đình Xuân


   
       

ĐẠI MỘNG

Giây phút chia ngày và đêm
Gần như khoảnh tóc xanh và tóc bạc
Nuối đôi khi vào vùng đệm
Của một thời ru êm

Có thể lả lơi trên lối đi dương thế
Mà tóc không mãi xanh hoài
Mơ treo ngoài cửa sổ suốt một đời trai
Trong thất ly cà phê gợi lên màu mộng

Hằng đêm ta cứ nhớ về em
Hằng đêm ta cứ suy về em
Hằng đêm ta cứ tưởng về em
Hằng đêm ta cứ lụy về em

Giữa ngày và đêm
Tóc xanh và bạc
Một thời ru êm
Một thời lục lọi

Uống cà phê trong thất
Ngoài cửa sổ trong veo
Mộng ngập căn nhà cổ
Ngoài cửa sổ trong veo

Lá hoa chưa lay động
Lý triết nhét đầy phòng
Ly cà phê còn nóng
??? ĐẠI MỘNG !!!

NHỦ TÔI HẠNH PHÚC THẬT GẦN, MỘT LẦN ĐI... - Thơ Tịnh Đàm


       
           Nhà thơ Tịnh Đàm


NHỦ TÔI HẠNH PHÚC THẬT GẦN
(Thân tặng bác G.T.Điệp )

Nhủ tôi,
Chẳng có gì hơn
Vẫn luôn thua thiệt...
Dỗi hờn làm chi !
Đường đời,
Mỗi một lần đi
Thấy bao hụt hẫng
Những gì ước mơ !

Nhủ tôi,
Cho đến bây giờ
Cũng buồn, vui ...
Cũng ngẩn ngơ... nỗi mình !
Cũng tha thiết mối chân tình,
Cũng yêu thương cả dáng hình của nhau.

Nhủ tôi,
Quên chuyện về sau
Ngồi xem nắng mới lên màu thanh xuân.

Này đây,
Hạnh phúc thật gần
Có đâu xa,
Chỉ trong tầm tay thôi.

CÓ NHỮNG BUỔI CHIỀU - Thơ Tuyết Mai


   
                      Vợ chồng nhà thơ Tuyết Mai


CÓ NHỮNG BUỔI CHIỀU

Từng buổi chiều qua đi
Trong cơn mưa thầm lặng
Tôi thấy mình trống vắng
Lặng lẽ đến buồn tênh.

Chiều không buồn như mưa
Nhưng sao mưa vẫn rơi
Một thoáng vui chưa đến
Một thoáng buồn đã qua.

Nhỏ nhoi, mảnh mai, thanh tao, yếu đuối
Tôi cố tìm cho mình một chút hồi sinh
Nhưng thoáng vui chợt đến thì thoáng buồn đã qua
Tim đau nhói, tôi biết mình đã sao rồi đó
Biết làm chi và cứu rỗi bằng chi…
Hãy để cho tôi một chút cười cay đắng
Thế Phiệt, Tam Anh - tôi muốn đời phẳng lặng.

Tôi mong chiều có nắng
Cũng như mong đời phẳng lặng
Hãy ngồi yên trong cuộc sống hôn hoàng
Cho tình trẻ lại
Như chiều mưa có nắng.

Những buổi chiều qua đi.
Qua đi, qua đi mãi …
Tôi muốn nằm yên
Ngắm nhìn cuộc đời phẳng lặng
Hãy cho tôi một phút bình yên… hỡi người.

                                                 Tuyết Mai

                                               Sài Gòn 1995


       
     

CẢI CÁCH CHỮ QUỐC NGỮ, CHUYỆN KHÔNG NÊN BÀN NỮA - GS.TS Nguyễn Văn Hiệp

      CẢI CÁCH CHỮ QUỐC NGỮ, 
      CHUYỆN KHÔNG NÊN BÀN NỮA

Tưởng chuyện này đã êm rồi (xã hội còn nhiều chuyện cần bàn hơn) nhưng hôm nay đọc những dòng giận dữ của GS Trần Đình Sử trên Tin Nhanh 24h, tôi thấy cần lên tiếng để ủng hộ GS Trần Đình Sử, góp thêm tiếng nói bác bỏ đề nghị cải cách chữ Quốc ngữ của PGS Bùi Hiền (thông qua Bản đề xuất của tác giả).
Những điều tôi viết ra đây cũng là ý kiến của Viện Ngôn ngữ học gửi lãnh đạo cấp trên (tháng 1/2018), nhân có chỉ đạo đề nghị Viện Ngôn ngữ học cho ý kiến về Bản đề xuất cải cách chữ viết của PGS Bùi Hiền (một người mà trong quan hệ bình thường hàng ngày tôi rất kính trọng).

TÌNH BUỒN CA DAO LỤC BÁT - Thơ Nguyên Lạc


         
           Tác giả Nguyên Lạc

1.
NHỚ NGƯỜI XA XỨ

"Sao tua chín cái nằm kề
Thương em từ thuở mẹ về với cha"
Sao vua chín cái nằm xa" *
Thương em giờ đã mù xa muôn trùng!

Em giờ còn nhớ tình chung?
Ta giờ đêm vắng trọn lòng nhớ mong!
Nhớ mong chỉ biết buồn thương
Trai quê nghèo khó mà thương nỗi gì?

Đài Loan, Hàn Quốc có khi
Chút gì gởi mẹ, chút gì gởi cha
Gió đưa cây cải la đà **
Thôi anh ở lại có mà chải bươn!

Ăn bông bí luộc, dưa hường ***
Thảm thương chi lắm? Quê hương đó người!

Giận người rồi lại hận đời
Hận ai gây cảnh đổi dời bể dâu!

Sông sâu tím một dòng sầu
Đêm ra đứng lặng cửa sau, trông vời

Sao Khuê mất dấu bên trời
Chỉ con vạc khổ, cùng lời thảm thê!
Thương câu: "từ thuở mẹ về..."
Mất em từ thuở màu cờ oan khiên

Khổ đau cùng lắm muộn phiền
Thôi em xa ấy, buồn riêng lòng này!

Nhớ người nhắn áng mây bay
Thôi quên đi nhé, lời ai hẹn thề!
Nhớ chi đời sẽ buồn thê!
Quên đi lời ấy, đừng về nhe em!

...............
[*] Sao tua chín cái (ối a) nằm kề
Thương em từ thuở mẹ về là về với cha
Sao vua sáu cái nằm xa
Thương em từ thuở người ra (ối a) người vào
(Bài Ca Sao - Phạm Duy)
Sao tua = Sao Khuê
[**] Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay (ca dao)
[***] Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh (ca dao)

GIAI THOẠI CHƯA KỂ VỀ NGUYỄN KHUYẾN - Vũ Tiến Đức

https://kienthuc.net.vn/tham-cung/giai-thoai-chua-ke-ve-nguyen-khuyen-315970.html  

     
              Tranh vẽ cụ Nguyễn Khuyến mặc áo quan 
                   treo trong từ đường tại quê nhà cụ.


GIAI THOẠI CHƯA KỂ VỀ NGUYỄN KHUYẾN

Cụ Nguyễn Khuyến quê ở làng Vị Hạ, nay thuộc xã Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam. Cụ là người nuôi chí học hành để giúp dân giúp nước và đã đạt đến vinh dự cao nhất trong nghiệp thi cử khi đỗ đầu cả ba kỳ thi (Hương, Hội, Đình). Tuy nhiên, đỗ đạt rồi ra làm quan cụ mới thấy chán ngán thế sự khi thực dân Pháp thì đang lấn chiếm dần dần đất nước còn triều đình Huế thì hèn nhát cam chịu.
Bởi thế làm quan đúng 10 năm, cụ cáo quan về quê nhà dạy học, ngâm thơ. Sống vui vầy giữa xóm làng, cụ nhiều lần viết đại tự, cho câu đối bà con lối xóm. Điều đó là chuyện bình thường đối với một người khoa danh như cụ. Tuy nhiên, điều đặc biệt là mỗi lần cho chữ, cho câu đối của cụ là một giai thoại kỳ thú.