BÂNG KHUÂNG
Hiển thị các bài đăng có nhãn ĐỒNG MÔN NGUYỄN HOÀNG. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ĐỒNG MÔN NGUYỄN HOÀNG. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Tư, 3 tháng 7, 2019
Thứ Ba, 2 tháng 7, 2019
CẢM THỨC VỀ THẦY, ĐÓA SEN HỒNG ĐƠN BẠC - Khang Hồ
Tác giả Khang Hồ
CẢM
THỨC VỀ THẦY – ĐÓA SEN HỒNG ĐƠN BẠC
Kính
dâng hương hồn thầy Lê Mậu Tâm- Cựu Giáo sư Trường TH Nguyễn Hoàng.
Thương
nhớ kính tặng anh Đỗ Tư Nghĩa - CHS NH 60-67
Và
một người bạn của những ngày tháng khổ cực tại Quảng Trị: Lê Mậu Thọ CHS NH
71-75.
Tôi cứ trăn trở câu chuyện về những người đàn ông.
Viết về những người đàn ông thành công trong sự nghiệp
thì dễ, vì tư liệu về họ nhiều lắm, chung quanh họ biết bao nhiêu là hào quang
chiến thắng.
Và đó không phải là những người tôi đang hướng tới,
tôi đang nghĩ về những người đàn ông mà đáng ra họ xứng đáng được những phần
thưởng của cuộc đời, nhưng vì số phận, hoàn cảnh, lẽ sống và đạo đức, họ đã mất
đi những ân huệ dành cho trí tuệ và sự cống hiến của họ.
Tôi cố tìm kiếm những con người ấy, may thay, có những
sự tình cờ như một cơ duyên.
THƠ THÁNG 7 CỦA NHÓM SÔNG QUÊ
MỘT
LẦN NGOÁI LẠI
Tôi đã về trên thành phố
nhỏ
Quảng Trị bây chừ lắm lối
vào ra
Tìm chốn cũ ngỡ ngàng
chùng bước lạ
Để thấy rằng Lưu Nguyễn
cũng là ta
Tôi đã về bên dòng sông
Vĩnh Định
Rặng tre già vẫn rủ bóng
ngày mưa
Qua cầu ngang nghe bước
chân bịn rịn
Nhớ bóng con đò, nhớ bến
nước ngày xưa
Tôi đã về thắp nén hương
tưởng niệm
Mộ người thân còn lặng lẽ
ngóng chờ
Màu hoa sim tím một trời
tiếc nhớ
Nước mắt tràn thương lắm
chuỗi ngày thơ
Tôi đã về trên nền trường
cũ
Nguyễn Hoàng ơi! Còn đó nỗi
buồn
Bạn bè ơi! Xin thắp giùm
ngọn nến
Kẻo mong manh, lạnh lắm
những u hồn
Tôi đã về để nghe mình bé
lại
Tưởng như ngày còn gõ guốc
hành lang
Quên đi bao năm lạc đời
mê mải
Một ngày thôi - Xin sống
lại tuổi vàng.
Tôi đã về giữa vòng tay
thầy, bạn
Với buồn vui như bão nổi,
sóng tràn
Mặt nhìn mặt: soi nếp
nhăn ngày tháng
Tay cầm tay: hằn lắm vết
gian nan
Tôi đã về nghe gió Lào trở
giấc
Sáng La Vang mưa trắng
xoá bờ lau
Chiều Tích Tường che mặt
trong lá nấc
Nghe ngậm ngùi câu sỏi đá
ngày sau…
Tôi đã về như cuộc tình
đã lỡ
Biết chẳng là chi mà cứ
ngoái nhìn
Chân bước đi mà hồn thì vẫn
ở
Nên một đời lạnh mãi kiếp
phù sinh
Tôi đã về tìm khung trời
dang dỡ
Để chừ xa. Chừ nhớ. Chừ
thương.
Con sông đời dù bên bồi
bên lở
Xin gởi hồn
Ngồi lại bên cầu
Để gõ nhịp
Chiều sương…
Nguyễn Thị Liên Hưng
AI VỀ QUẢNG TRỊ ĐÔNG HÀ - Trần Kiêm Đoàn
Kỷ niệm 35 năm Mùa Hè Đỏ Lửa (1972-2007), viết tặng các học sinh Nguyễn Hoàng và thanh niên Hồng Thập Tự Quảng Trị
Trần Kiêm Đoàn
Tác
giả Trần Kiêm Đoàn bên bờ Bắc cầu Bến Hải
– Mùa Hè 2007
AI
VỀ QUẢNG TRỊ ĐÔNG HÀ
Ai
về Quảng Trị Đông Hà,
Hỏi
o lòng thả, heo bà… lặt chưa ?!
Hồi còn làm trưởng Thanh Niên Hồng Thập Tự Quảng Trị
thời Hồi Cư năm 1973, các em học sinh và đoàn sinh của tôi vẫn thường đặt bày
hát “đía” như thế để chọc mấy em nữ sinh bán quán lòng thả ở Hải Lăng, Diên
Sanh. Và nghe đâu, giới giàu kinh nghiệm món lòng thả cho rằng, giống heo đực lặt…
tiệt sau ba tháng, đem nấu lòng thả mới ngon tuyệt cú mèo (?).
Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2019
HONG ĐỜI DẤU YÊU - Thơ Hoàng Chẩm
Nhà thơ Hoàng Chẩm
HONG
ĐỜI DẤU YÊU
Hồn thắp lửa em hong tình
đón hạ
Lả lơi đêm trăng rụng xuống
đáy sông
Như chao chát gối chăn đời
bỗng lạ
Mộng đầu giường em trải hết
mênh mông
Lời ru nhau đợi mùa yêu cất
giọng
Hong cả chiều hoa nở muộn
đường quê
Em cúi mặt lắng nghe
hương tình đọng
Bung cả lòng trổi khúc
hát hoan mê
Áo chưa cài nhụy tình
hong men lạ
Ta ôm hoài cơn sóng cuộn
biển mơ
Dẫu biết ngàn khơi không
lời từ tạ
Tương tư ngọn ngành đau
buốt câu thơ.
Hoàng Chẩm
25-06- 2019
VỀ ĐI THÔI! - Thơ Phan Thạch Nhân
Tác giả Phan Thạch Nhân
VỀ
ĐI THÔI!
Về đi thôi!
Tìm một chút hương quê
Để ấm lòng đời lữ thứ
Mưa nắng hai mùa mà Nam bộ
mù khơi
Tìm lại tuổi thơ ngày xưa
xa vời vợi
Ngắm ngọn gió Lào thổi
cát trắng bay xa
Về đi thôi!
Bến sông quê vẫn chờ vẫn
đợi
Câu hò nào
Ray rứt mãi người đi
Đường Gia Long
Chưa quên chuyện cũ thầm
thì
Trăng vẫn sáng
Dưới đường hoa phượng đỏ
Về đi thôi!
Quảng Trị mùa này
Chim bay về hội tụ
Đất mẹ trải lòng chờ đợi
những đoàn viên
Nếu một ngày...
Con tim lỡ ngủ quên
Vẫn mỉm cười đi thăm miền
đất lạnh.
Phan Thạch Nhân
Cafe sáng VT, 25/6/2019
MƠ XUÂN - Nguyễn Miều
Tác
giả Nguyễn Miều
MƠ
XUÂN
( Tình yêu học trò)
Em đã trở về sau những ngày dài xa cách, hình bóng kiều
diễm của em đã in hằn trong tâm trí của tôi, tôi đã mê những buổi nắng hồng lên
nhè nhẹ trong một vườn hoa thơm ngát có bướm vàng bay lượn xung quanh, những buổi
chiều gió heo may lành lạnh thổi đã sưởi ấm cỏi lòng của tôi sau những tháng
ngày giá lạnh.
Ngày em ra đi tôi nhu một người mất trí những ngày hè
nóng nực vì thiếu hình bóng kiều diễm của em, lá vàng rơi từng chiếc tôi đã đem
làm nấm mồ để chôn chặt mối tình si.
Tôi mê em như một tên tục tử mơ tưởng đến một nàng
tiên, hình bóng đó tôi đem làm niềm vui cho cuộc sống: những đêm dài thao thức,
những đêm trăng một mình một bóng tôi thường âu yếm mơ tưởng đến hình bóng của
em.
Em như ngôi sao quá xa vời trần thế, bàn tay tôi ngắn
quá làm thế nào để nào để ôm trọn được em. Nhưng chính thế mới là tình yêu
thánh thiện, mới muôn đời đẹp mãi với thời gian.
Nguyễn Miều
(Sáng tác trước 1975)
BÁNH BỘT LỌC - Quang Tuyết
Tác giả Quang Tuyết
BÁNH
BỘT LỌC
Quê tôi, Quảng Trị… Hay nói rộng ra là miền Trung, cứ
mỗi mùa mưa lũ về, là Sắn bày bán đầy chợ. Thuở ấy, xưa thật là xưa, các bà nội
trợ chế biến đơn giản thôi, nhổ về bóc hết võ mài ra rồi nhồi vắt thành từng miếng
tròn đem hấp, có gđ thế bữa cơm chính luôn đó. Từ tình yêu thương chồng, con. Từ
bản năng nội trợ trời phú cho người đàn bà... Nói theo ngôn ngữ trào lưu: “Tư duy được đầu tư, trí tuệ phát sinh”,
dù chỉ quanh quẩn hạn chế trong bếp ăn cũng là một sáng kiến. Không biết quá
trình chuyển biến thế nào mà sau đó Sắn mài ra hòa nước, nhồi vắt cho ra bột rồi
lượt, lọc sạch qua dụng cụ chứa khác. Xác Sắn nuôi heo, bột lóng vài ba lần cho
sạch mủ và trắng tinh tươm: Thế là Bột sắn lọc ra đời.
Thứ Tư, 26 tháng 6, 2019
ĐÊM KINH THÀNH LỬA DẬY - Thơ Văn Thiên Tùng
Di
tích Thành Tân Sở thuộc địa bàn làng Mai Đàn,
xã Cam Chính, huyện Cam Lộ, tỉnh
Quảng Trị
ĐÊM
KINH THÀNH LỬA DẬY
(23.5, Ất Dậu)
"ĐÀN ÂM HỒN" chứng
tích lịch sử
Đêm kinh thành một thuở nấu
nung
Nỗi đau dân tộc tột cùng
Hận Tây - Sa áp xiềng
gông Nam triều ...
Ỷ thế mạnh đặt điều áp bức
Buộc triều đình tuân phục
sứ Khâm
Phép vua - luật nước Đại
Nam
Xưa rày tất tật rắp răm
thi hành
Trước nghịch cảnh sao
đành khuất phục
Nén hận ôm nổi nhục như vầy
Tôn Vua bổn quốc xưa rày
Tự quần dân định sao bày
trình qua
Cửa Ngọ Môn chỉ Vua Nam
được
Hành di cùng quan tước quốc
gia
Cớ sao sứ quốc bỏ qua
Đi vào cửa chính… như là
bổn Vua…
Bao lần nhịn bàn qua
thương thảo
Sứ chẳng nhường lại lệnh
triều ta
Đệ trình Pháp quốc phương
xa
Tất tật mọi việc …tấu
thưa ngọn ngành
Bắc - Trung - Nam đành
rành một dãy
Chúng rắp tâm cướp lấy
hai đầu
Nam - Bắc nuốt hận ngậm sầu
Triều đình ấm ức nát nhàu
tâm can
Đêm hai hai - tháng năm -
Ất Dậu
Lửa Hoàng thành nung nấu
sục sôi
Chuyển nòng đại pháo điểm
nơi
Từng tràng nhả hận đất trời
chuyển rung…
Đồn Mang Cá đì đùng lửa dậy
Tòa Khâm kia đâu đấy siết
vây
Pháo xòa thiêu rụi đồn
bây
Hỏa công xáp trại bủa vây
đến cùng
Rạng sáng ngày Hoàng Cung
rực lửa
Súng đì đùng tứ cửa kinh
đô
Vỡ thành chúng ập tràn vô
Cuồng điên đốt phá - cướp
kho giết người
Lửa ngút trời, máu đào đẫm
phố
Xác con thơ già cả nào
phân
Tiếng gào la thét thất
thanh
Kinh thành máu nhuộm -
Hoàng Thành tả tơi…
Đành tạm buộc di dời
vương điện
Xuất cung men rừng - biển
hướng ra
Quan quân phụng chỉ giá
xa
Hậu cung theo bước Hoàng
gia đến cùng
Hai hướng chuyển di đồng
đôi tướng*
Dừng cựu dinh** rồi hướng
lên non
Kinh thành dẫu mất hay
còn
Tôi trung thời mãi sắt
son theo cùng
Ngược dòng Hàn lên vùng
Trấm - Trái
Non Mai thiêng - sơn trại
định hình
Ba Lòng nguồn thẳm đất
linh
Định Thành Tân Sở (2) dụng
binh khởi cờ
Nung nghĩa khí sẵn chờ đồng
dậy
Hịch cần vương (2) đâu đấy
Vua tuyên
Đại Nam khắp cả ba miền
Sỹ phu cùng với quần hiền
chung tay...
Dựng sơn phòng đó đây vững
chí
Khắp ba miền nung khí hờn
căm
Nhắn cùng Pháp quốc xa
xăm
Mông - Nguyên - Tàu - Hán
nghìn năm ê chề
Văn Thân vọng lời thề chí
sỹ
Từ Vụ Quang cho chí Ba
Đình
Hương Khê - Bãi Sậy - Quảng
Bình... chuyển lay
Đinh Công Tráng lũy dày cẩn
mật
Phan Đình Phùng tất bật ngược
xuôi
Đồng tướng Cao Thắng sục
sôi
Súng trường chế tác ra đời
Pháp kinh
Mai Xuân Thưởng nghĩa
binh lừng thế
Nguyễn Xuân Ôn Thanh -
Nghệ vẩy vùng
Tống Duy Tân dụng võ lẫy
lừng
Thiện Thuật - Đề Thám
trùng trùng kế hay
Lời sát thát "BÌNH
TÂY SÁT TẢ"
Khắp ba kỳ bôn bả lập
công
Bao phen giặc Pháp khốn
cùng
Thôi đành gác mộng xăm
lăng vẫy vùng...
Nổi oán hận chất chồng
sông núi
"ĐÀN ÂM HỒN" điểm
múi mốc son
Những ai vì nước vì non
Thác lúc binh lửa mất còn
hảy hay...
Đàn Âm hồn xưa rày vẫn thế
Lệ thường niên lễ tế vong
linh
Đã vì quốc sự quên mình
Hay vì đại nạn đao binh
phách tầm
Quảng Trị,
19/6/2019
Mai Vân Văn Thiên Tùng
* Hai đại thần : Tôn Thất
Thuyết và Nguyễn Văn Tường.
** Thành Quảng Trị.
…….
(1) Chiếu Cần Vương.
Tên
chính thức là Lệnh dụ thiên hạ cần vương, là lệnh dụ của vua Hàm Nghi nhà Nguyễn,
tuyên bố ngày 13 tháng 7 năm 1885 (tức ngày mùng 2 tháng 6 năm Ất Dậu) tại căn
cứ Tân Sở thuộc Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị khi phe chủ chiến của triều đình Huế thất
bại trong trận chiến Kinh thành Huế ngày 5 tháng 7 năm 1885, nhà vua phải xuất
bôn. Đây là lời dụ kêu gọi sĩ phu và dân chúng toàn quốc nổi dậy chống lại sự
đô hộ của người Pháp lên đất nước Đại Nam sau Hiệp ước Giáp Thân (1884).
(2)
https://bazantravel.com/thanh-tan-so-o-quang-tri/
(3)
ĐÀN ÂM HỒN
http://www.husta.org/…/bien-co-kinh-do-hue-nam-1885-va-le-t…
(4)
Bài Văn Tế Đàn Âm hồn - Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
http://www.art2all.net/tho/vinhba/vanteamhon.html
Thứ Năm, 20 tháng 6, 2019
DẪU LÌA NGÓ Ý – Ngô Hương Thủy
Tác giả
Ngô Hương Thủy
DẪU
LÌA NGÓ Ý
“Dẫu
lìa ngó ý còn vương tơ lòng”
(câu
2242 trong Đoạn Trường Tân Thanh)
Nhà thơ ngụ ngôn người Pháp La Fontaine đã nói một câu
rất hay về tình bạn: “Tình yêu thật sự đã
hiếm; tình bạn thật sự còn hiếm hơn”.
Cát Đằng, tên một loài hoa leo có màu xanh pha tím, mỏng
mảnh. Bạn tôi cũng dịu dàng, mềm mại, quý phái như hoa.
Chúng tôi thân nhau từ thuở nhỏ, lúc còn học trường tiểu
học Đoàn Thị Điểm trong Thành Nội. Hai đứa cứ thế lớn dần lên, lần lượt qua bên
kia sông Hương học Đồng Khánh rồi Văn Khoa…
Nhà Cát Đằng nằm ở một góc nhỏ trên đường Mai Thúc Loan.
Căn nhà cổ xưa như cuộc sống quan cách của gia đình. Ba Cát Đằng làm công chức
cao cấp của Ty Ngân khố Thành phố. Ông đặt cho con những cái tên thật đẹp của
các loài hoa : Cát Đằng, Đỗ Quyên, Hoàng Lan… Mấy chị em sống khép kín như những
con ốc trong bốn bức tường rêu.
TÌNH BỖNG NHỚ, BỖNG QUÊN - Phan Quỳ
Nhà thơ Phan Quỳ
TÌNH
BỖNG NHỚ, BỖNG QUÊN
Người đi. Tình bỗng nhớ.
Người về. Tình bỗng quên.
Ta chào nhau giữa phố.
Phôi pha những êm đềm.
Ơi tia nắng vừa lên.
Ơi cơn mưa chợt xuống
Ơi mùi hương cỏ mật
Ơi tóc đẫm sương đêm.
Có cồn cào hiển hiện
Có sâu lắng trong tim
Có im lìm bão nổi
Có ồn ào, dịu êm?
Biết bao lần ta hỏi
Con sóng nào qua mau
Cuốn trôi về tất cả
Xô dạt lòng biển sâu?
Có hay lòng ta đau
Cơn mưa dài nỗi nhớ
Cơn nắng đẫm chờ mong
Ngày đìu hiu im vắng
Đêm quạnh quẽ bên song
Đêm chìm lắng mênh mông
Đêm
trăng tàn nguyệt tận
Đêm
hun hút vô cùng...
Phan Quỳ
GẶP DỊCH GIẢ ĐỖ TƯ NGHĨA - Võ Cẩm
Đỗ tư Nghĩa và Võ văn Cẩm tại Đà Lạt 14/6/2019
GẶP
DỊCH GIẢ ĐỖ TƯ NGHĨA
Đỗ tư Nghĩa em ruột Đỗ tư Nhơn thầy giáo trường Trung học
Nguyễn Hoàng, Quảng Trị. Đỗ tư Nghĩa là một trong số học trò xuất sắc thế hệ NH
60/67, cùng lớp với Đoàn Đức, Nguyễn Thắng, Lê mậu Minh, Nguyễn Đình Hạnh, Nguyễn
Văn Quang...
Cô Nguyễn Thị Nhã giáo viên chủ nhiệm gọi Đức - Nghĩa
- Thắng là “3 anh em kết nghĩa sân chơi
Nguyễn Hoàng Quảng Trị”.
Đoàn Đức kể: Khi học lớp 12C, Nghĩa xin nghỉ học,
không đến lớp. Chỉ dự vài giờ Triết của thầy Lê mậu Tâm. Nghĩa vẫn đậu Toàn phần
loại cao năm ấy. Học giỏi đến như vậy là cùng.
Nghĩa học Văn Khoa Đại học Huế, tốt nghiệp cử nhân Triết,
có những lúc thầy Tâm bận việc thường nhờ nghĩa đứng lớp thay thế thầy.
Nghĩa rất giỏi Anh, Pháp. Nhiều năm dạy học ở Đà Lạt.
Sau 1975 Nghĩa nghỉ dạy, chuyên dịch sách đặc biệt là loại sách Triết học, những
tác phẩm nổi tiếng của những nhà văn tên tuổi. Nghĩa dịch nhiều tác phẩm của
Tolstoy và cuộc đời tác giả “Chiến tranh
và Hòa bình”
Cách đây hơn 10 năm gia đình Nghĩa được định cư ở Mỹ.
Vợ con đi nhưng Nghĩa ở lại Việt Nam sống một mình tại Đà Lạt với cuộc sống hết
sức đơn giản. Đơn giản đến mức tôi phải chịu thua. Con gái của Nghĩa tốt nghiệp
Đại học ở Mỹ đang về làm việc ở Việt Nam, quản lý tập đoàn Grab tại Sài Gòn. Hàng
tháng cháu lên thăm bố hai lần. Già, bệnh nhưng Nghĩa ăn uống hoàn toàn tự túc. Nghĩa đã ăn trường trai nhiều năm. Riêng khoản này tôi cũng thua.
Ai về Đà Lạt, Nghĩa thường tặng sách mà anh là dịch giả.
Lúc cô Nguyễn Thị Nhã còn sống, lên thăm con gái là bác sĩ, cô trò thường gặp
nhau. Không lần nào lên Đà Lạt mà tôi không gặp Nghĩa.
TỰ TÌNH THÁNG SÁU - Thơ Hoàng Chẩm
Nhà thơ Hoàng Chẩm
TỰ
TÌNH THÁNG SÁU
Tháng sáu ơi ngọn ngành
xanh vườn cũ
Sông nước chiều xưa mở lối
nhớ tình xa
Tay trong nhịp thở nghe
tiếng buồn rơi rụng
Bến nước ân tình sâu lắng
một mùa hoa
Ta trở lại bên sông tìm
giọt nắng
Tháng sáu thì thầm khúc
hát gửi lòng ai
Mặt mày xưa ngó nhau buồn
không nói
Sợi tóc nào bay vẻ nét
tàn phai
Lưng chừng con nước như
dòng đời lặng lẽ
Nhớ ngày về theo dấu nụ hồng
xưa
Em đong đếm hương nồng
mùa hạ trắng
Chén hương cay môi thắm
như cơn mưa
Bây chừ một chỗ ngồi còn
trống trải
Còn đó ngày sang sông đi
ngược đường tơ
Như bắt giữ bóng đời nhau
qua dâu bể
Thì thầm âm xưa vọng tiếng
đôi bờ.
Đợi vầng trăng khuất mượn
màu hoa tím
Thuở đi về chải chuốt một
giấc mơ
Tháng sáu có nhau trong từng
hơi thở
Khéo tay buộc nối em giữ
kín dòng thơ.
Nước không cạn bởi mùa
hoa tháng sáu
Ngậm ngùi tôi một thoáng
với tóc mây
Nụ hôn muộn màng đầu đời
cất tiếng
Tình ơi!
Còn tuổi nào nghe ngóng
giữa vòng vây.
Viết giữa mùa bằng lăng tím
Hoàng Chẩm
GIÓ BẤC - Hoàng Long Hải
Tác giả Hoàng Long Hải
GIÓ
BẤC
“Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam”
(Tục ngữ)
Chẳng ai lấy vợ đàn… ông. Cũng có nghĩa rằng
chẳng ai làm nhà quay về hướng khác, nhất là hướng bắc, mà nhà thì phải quay về
hướng nam.
Hướng bắc
là hướng gió Bấc thổi, lạnh lắm, nên muốn tránh cái lạnh của gió Bấc người ta
phải quay mặt nhà về hướng nam.
Câu tục ngữ
nói trên là của đồng bào miền Bắc Việt Nam.
Đó cũng là kinh nghiệm sống, kinh nghiệm dựng nhà của
người ngoài đó. Nhà đã quay về hướng nam, cửa chính cũng không làm rộng, cửa sổ
đã nhỏ lại nằm trên cao. Dĩ nhiên, đó là những nhà tranh thuộc các gia đình
trung lưu hay nghèo khó, là những nét đặc biệt của lối kiến trúc người Bắc, vừa
ngăn cái lạnh của gió Bấc, vừa giữ trộm cắp, nhà lại kín đáo. Người ta thường dấu
cái nghèo của mình, cháo thay cơm, hay ăn sắn khoai trừ bữa cũng không ai hay.
Mái nhà xuống
thấp, trùm kín phần trên vách để che mưa. Hơn nữa, cửa chính nhỏ và hẹp, cửa sổ
nhỏ và cao để việc sinh hoạt trong nhà được kín đáo nên trong nhà thiếu ánh
sáng tự nhiên.
Làm nhà hướng về phía nam có thể đón gió nồm thổi mát
vào mùa hè. Hai chái phụ ở hai đầu, một hướng đông, một hướng tây chống hơi
nóng mặt trời sáng và chiều.
Trước nhà trồng cau (để đón gió nam mát) sau nhà trồng
chuối (lá chuối ngăn bớt gió bấc lạnh mùa đông).
Người đàn bà vắng chồng, đêm đêm ôm con, nghe tàu lá
chuối bị gió đập phía sau hè, lòng buồn lắm. Đó là nguồn hứng khởi của câu ca
dao:
“Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh nghe vợ bé, bỏ bè con thơ.”
Người giàu làm nhà ngói, nhà cao cửa rộng, tác giả
không bàn ở đây.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)