BÂNG KHUÂNG
Thứ Hai, 26 tháng 2, 2018
Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018
CHÙM THƠ CHU VƯƠNG MIỆN
XUÂN XUÂN
mấy chục năm không viết thơ xuân
năm tàn tháng lụn cứ qua dần
mới đó mà đã gần tám bó
bây giờ xuân lù lù sau lưng
xuân của thiên nhiên của đất trời
hết đông xuân lại đến bên người
người vui hay khổ xuân o biết
bốn mùa bát tiết tiếp nhau trôi
một năm 365 ngày
xuân đi rồi xuân đến
tết đến rồi tết đi
một năm mười hai tháng
thảo nguyên cỏ xanh rì
phía này sơn ca hót
vọng lại tiếng từ qui
ngồi quên trên bãi cỏ
gió ngàn qua vi vu
chung quanh hoa rừng nở
cánh bướm bay nhởn nhơ
xa xa tràng pháo tết
xuân đến tự bao giờ ?
Thứ Tư, 21 tháng 2, 2018
TÂM LÝ NGÀY TẾT - Phạm Quỳnh
TÂM LÝ NGÀY TẾT
Phạm Quỳnh
Lời dẫn của Phạm Tôn:
Bài này Phạm Quỳnh viết bằng tiếng Pháp nhan đề Psychologie du Tet, đăng trên phần Pháp văn của Tạp chí Nam Phong số 149-1924, sau này có in trong Tiểu luận 1922-1932 (Essais 1922-1932) và đã được nhà văn Nguyên Ngọc dịch rất đạt ra tiếng ta, xuất bản năm 2007. Nhưng ở đây, chúng tôi giới thiệu với bạn đọc bản dịch của Tiến sĩ Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh, và là tác giả luận văn Tìm hiểu tạp chí Nam Phong để tạo thêm một nét hứng thú trong ngày Tết này.
Những dịp để cho cả một dân tộc cùng nhau hướng về một tình cảm, một tư tưởng, để cùng nhau rung động…thật là hiếm có. Thường phải có những sự xẩy ra khá quan trọng, có ảnh hưởng đến tính mạng cả một đoàn thể, để ai nấy đều phải để hết tâm trí vào.
Dân Việt Nam ta có cái may mắn, cái đặc ân là có một dịp vui chung cho tất cả, dịp ấy cứ đều đặn mỗi năm một lần vào ngày đầu xuân năm mới. Về dịp này tất cả đàn con đất Việt, từ người giàu cho đến kẻ nghèo, từ người tiên tiến cho đến kẻ thủ cựu đều một lòng một dạ, cùng nhau hớn hở đón chúa xuân, trong mấy ngày lễ long trọng, trang nghiêm mà cũng rộn ràng náo nhiệt biết bao! Ngày ấy là ngày TẾT.
Thứ Ba, 13 tháng 2, 2018
AN TRÚ - Thơ Trần Mai Ngân
Tóc anh bạc khói sương
Lòng em luôn xanh thắm
Yêu thương thật vô nhường
Tháng ngày tờ lịch hết
Để ta lại bắt đầu
Đánh dấu trang tình yêu
Ngọt ngào tươi màu mới
Thời gian luôn bước tới
Riêng ta ở chỗ này
Xin an trú thật đầy
Như bao ngày ta đã
Mùa xuân như tình xuân
Dù đôi khi nghiêng ngả
Ta vẫn hết một lòng
Yêu người như thế đó
Tóc anh trắng màu mây
Hoa nắng tròn mê say
Tết tình yêu yến tiệc
Lòng phải lòng ngất ngây...
Trần Mai Ngân
13-2-2018
Thứ Hai, 12 tháng 2, 2018
THẦY HỒ SĨ CHÂM, GIÁO SƯ DẠY ANH VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG QUẢNG TRỊ - Đoàn Đức
Thầy Hồ Sĩ Châm
Dạy Anh văn lớp Đệ Nhất C (Lớp 12). NK 1966 – 1967
Năm lớp Đệ Nhất C, thầy Hồ Sĩ Châm dạy chúng tôi môn Anh văn, sinh ngữ 1. Được biết thầy tốt nghiệp chuyên ngành Cử nhân Văn chương Anh Mỹ (B.A. in English Literature) và sinh ngữ phụ là Pháp và Đức ngữ, tại Hoa Kỳ. Thầy xuất thân trong dòng tộc Hồ Sĩ có tiếng ở Quảng Trị nên chúng tôi rất ngưỡng mộ. Ngày đầu tiên thầy vào lớp, trông thật hiền lành, dáng người trung bình, nhỏ nhắn. Thầy đọc và giảng bài như các thầy tốt nghiệp ĐHSP Huế hay Sài Gòn chứ không có vẻ “Mỹ” chút nào cả, chỉ có khác là thầy nói tiếng Anh rất tự nhiên và lưu loát. Năm học lớp Đệ Nhất C, bạn thân của tôi, Đỗ Tư Nghĩa vì buồn tình nên xin học miễn chuyên cần, chỉ tới lớp học môn Triết mà thôi chỉ khi nào thi Đệ Nhất Lục Cá Nguyệt hay Đệ Nhị Lục Cá Nguyệt (tức học kỳ I và II) thì mới có mặt đầy đủ để thi các môn. Tôi thoạt đầu thấy trống vắng và buồn vì Nghĩa ngồi cùng bàn sát bên trái tôi suốt sáu năm liền; nay năm cuối chỉ còn lại mình tôi. Thế nhưng rồi cũng quen vì đã có người khác thay thế ngồi bên cạnh. Bấy giờ tôi phải giơ tay hoạt động nhiều hơn và lên bảng nhiều hơn vì lớp chỉ còn 13 người mà tiếng Anh là môn chính, hệ số 3, sáu giờ một tuần.
LA GI ĐẤT CỦA NGƯỜI TỨ XỨ - Phan Chính
LA GI ĐẤT CỦA NGƯỜI TỨ XỨ
Lần theo bước chân của Tư nghiệp Nguyễn Thông khi nhận
chức Doanh điền sứ Bình Thuận (1877) đã lặn lội tận cùng núi cao hiểm trở từ
phía tây Bình Thuận qua hướng bắc Biên Hòa, hết lòng với công việc của nhà quy
hoạch. Những địa danh có từ trước đó sống lại trên trang sớ dâng vua
"Nghĩ thỉnh thượng du đồn khẩn sự nghi sớ" (sớ xin lập đồn điền
khai khẩn vùng thượng du). Khi đề xuất mở tuyến đường nối biển với vùng cao,
Nguyễn Thông có nói đến các địa danh như La Di thuộc Hàm Tân và ước lượng
quãng đường dài tính bằng đêm xe trâu đi. Rồi ở vùng lân cận đã có Bác Dã (Đồng
Kho), Lạc Hải (Biển Lạc) thuộc Tánh Linh và Cao Cương (La Ngư), Thiển Môn (Cửa
Cạn) thuộc Hàm Thuận Nam, Hàm Tân có Canh Man (Sông Phan ?)…Tất nhiên có những
cơ sở từ sử liệu Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán nhà Nguyễn (1802-
1845) mà Nguyễn Thông tiếp tục trong quá trình khảo sát thực địa.
ĐIỆU RU VỎ ỐC - Thơ Quang Tuyết
ĐIỆU RU VỎ ỐC
Em trở về bên biển
Hoà điệu cùng cô đơn
Biển trào dâng không dứt
Nỗi lòng như sóng vờn
Một mình trên biển vắng
Nhặt tìm những bước chân
Bên thềm xuân đã đến
Thuyền vẫn còn mênh mông
Vùi đêm trong tiếng sóng
Vùi tình trong cơn mê
Vùi anh trong quá khứ
Vùi mình trong tái tê
Biển níu chân em lại
Bằng bọt bèo sóng hoa
Anh níu đời em mãi
Bằng bóng mây chiều xa
Đời xin là nốt lặng
Dòng nhạc còn say mơ
Người xin thôi hò hẹn
Nắng tàn soi bóng mờ
Đinh Quang Tuyết
VT sáng thứ bảy
Chủ Nhật, 11 tháng 2, 2018
Thứ Bảy, 10 tháng 2, 2018
BÀI TỰA NHÀ VĂN CUNG TÍCH BIỀN VIẾT CHO THI PHẨM "KINH VÔ THƯỜNG" CỦA VÕ THẠNH VĂN
@ I
Từ Kinh
Một kính ngưỡng hằng có mà chúng ta được biết, phần nào được hiểu: “Lời / Chữ của bậc Thánh Nhân gọi là Kinh, của thường nhân, là Truyện.”
Kinh Dịch đã định rõ 2 phần: Kinh và Truyện. Lời luận giải của Khổng Tử --một chỉ yếu hình định Dịch kinh— là Truyện.
Thứ Sáu, 9 tháng 2, 2018
CHẬP CHỜN XUÂN PHAI - Thơ Trần Mai Ngân
CHẬP CHỜN XUÂN PHAI
Chập chờn cơn mê
Giăng mắc lối về
T ơi tìm đâu
Năm tháng trắng mầu
Trôi trên tóc xanh...
Chập chờn mong manh
T ơi quẩn quanh
Hoa Bằng Lăng tím
Của em và anh
Mây cũng xa rồi !
Chập chờn xa xôi
Vẽ nét đơn côi
Trên tờ giấy cũ
Cánh hoa ủ rũ
Một cơn mưa chiều
Chập chờn những điều
Cùng anh không nói
Trôi mãi âm thầm
Nỗi đau lặng lẽ
Giấu cầm trên tay
Chập chờn Xuân phai
Bước nốt đường dài
Chẳng ai còn ai
Chẳng ai còn ai
Chập chờn phôi phai...
Những ngày cuối năm Đinh Dậu
Trần Mai Ngân
TƯ LIỆU LỊCH SỬ VỀ CÁC TRẬN CHIẾN BẠCH ĐẰNG GIANG - Le Quang Chac
Cửa sông Bạch Đằng ngày nay thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh
TƯ LIỆU LỊCH SỬ VỀ CÁC TRẬN CHIẾN
BẠCH ĐẰNG GIANG
BẠCH ĐẰNG GIANG
Trần Hưng Đạo là người có đức –tài, về nhân cách ông đặt mối thù chung lên mối thù riêng. Ông tập trung vào việc chống ngoại xâm là chính, đối với Trần Cảnh, Trần Chung thì ông vẫn giữ đoàn kết. Vua tôi đồng lòng, cả nước ra sức. Đó là yêu cầu chiến lược, là bài học lớn của chúng dân được Trần Hưng Đạo rút ta từ ba lần chống Nguyên – Mông xâm lược. Từ vai trò của vị tướng quân thời Trần trẻ tuổi, cuộc kháng chiến lần thứ nhất đến cương vị của một vị Quốc công thiết chế, đứng đầu sự nghiệp quân sự của toàn bộ quân dân Đại Việt. Ở cuộc kháng chiến gian khó nhất, ở cả ba cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông xâm lược. Là cuộc kháng chiến lần hai đến lúc mở màn cuộc kháng chiến lần thứ ba. Đứng trên cương vị tối cao mà ở đó là nhờ những vị thống soái già dặn, tài năng sự nghiệp chiến tranh và chiến trường đầy ắp vinh quang của chiến công và chiến thắng oanh liệt của thời đại tràn đầy hào hứng Đông A lúc bấy giờ.
Trận Bạch Đằng lần thứ ba đã được dựng lại sự hình thành trận Bạch Đằng giang, giờ đây đã rõ ra là một dòng sông chiến trường lịch sử sau Ngô Quyền.
Thứ Tư, 7 tháng 2, 2018
ÔNG GIÀ BÁN VÉ SỐ - Lưu An
ÔNG GIÀ BÁN VÉ SỐ
Về hưu đã hơn một năm nay nhưng tôi vẫn chưa quen thuộc được lối sống nhàm chán của một người không có gì để làm. Cả ngày chỉ đi lên, đi xuống tìm những việc vớ va, vớ vẩn để làm hay đi thăm bạn bè, tán gẫu. Ngày nào cũng mua 2 hay 3 tờ báo đọc không còn một chữ, ngay cả những trang quảng cáo cũng không bỏ sót.
NỖI LÒNG LƯU DÂN - Thơ Tuệ Minh
NỖI LÒNG LƯU DÂN
Rưng rức giậu sau mấy nụ đào
Năm cùng tháng tận, trời buông rét
Khiến khách lưu phương dạ xuyến xao
Chạnh nhớ quê hương, xa bấy dặm
Tìm về cửa Phật, điểm tâm giao
Bánh chưng, bánh tét, chung tay gói
Giữ trọn yêu thương những ngọt ngào
Lá chuối, gạo thơm gìn sự tích
Dưa hành, nhân đậu nếp thanh tao
Nhắc con, nhủ cháu luôn đùm bọc
Lẽ đạo khuôn vàng phép gởi trao
Thư pháp chúc Xuân câu đối đỏ
Tâm linh thắp sáng nghĩa đồng bào
Mái chùa không khí ra ngày Tết
Ấm áp tình người, bớt xuyến xao
Tuệ Minh
February 5, 2018
Nguồn:
Nguồn:
https://www.facebook.com/ThichPhuocToan/posts/412292299208414
Thứ Ba, 6 tháng 2, 2018
CHÙM THƠ TỊNH ĐÀM
Nhà thơ Tịnh Đàm
GỞI NGƯỜI XA
Người còn mê mải chốn xa
Có mơ cùng nỗi nhớ nhà bao năm ?
Để khi nghe lạnh chỗ nằm
Mới hay mắt lệ ướt đằm niềm riêng !
CHÚT TÌNH
(Thân tặng bác G.T.Điệp)
Buồn vui cũng ở chốn này
Trà suông, vắng bạn... uống cay nỗi mình !
Ngẫm đời trong cõi nhân sinh
May còn có được chút tình làm duyên
MỘT MÌNH
Phố đông người, vẫn riêng mình
Tôi ngồi như một tượng hình bơ vơ !
Nhìn trăm con mắt hững hờ
Biết ai thương cảm trước giờ biệt ly ?
Bạc đầu, chân mỏi còn đi
Trả cho xong nợ những gì trót vay !
Đến khi đời trắng đôi tay,
Tôi về ru lại tháng ngày trong xưa !
Tịnh Đàm
(Hóc Môn, TP. HCM)
XIN BÌNH AN - Thơ Trần Mai Ngân
Nhà thơ Trần Mai Ngân
XIN...
Mùa Xuân, mùa Hạ, Thu Đông
Đời trôi vội vã sắc không xa rời
Phúc thiền sinh hiện nơi nơi
Từ bi một đóa hoa đời tôi xin...
BÌNH
Tâm bình thân trí cũng bình
Cho đi tất cả phần mình cần chi
Thế gian suy thịnh lẽ vì
Xem như sương khói nhẹ thì bay đi...
AN
An nhiên như thể trăng rằm
Sáng soi trần thế lặng thầm có không
Tình trần vốn dĩ mênh mông
Xin qua duyên kiếp long đong phận người!
4-2-2018
Trần Mai Ngân
KINH VÔ THƯỜNG (TT) - Thơ Võ Thạnh Văn
KINH VÔ THƯỜNG (tt)
[011]
yêu nhau túy mộng triều cương
qua cơn bão loạn xuân nhường thu phong
xa nhau bến gợn nước ròng
đông căm tuyết tụ – hạ nồng son phai
[012]
vầng xoay đất mộng liêu trai
phôi thai nước nhược – hoài thai non bồng
một lần không – vạn lần không
trăm năm trắc trở còn chong mắt chờ
EM RA PHỐ THỊ - Thơ Sáu Miệt Vườn
EM RA PHỐ THỊ
Em mang gì ra phố
Trong nắng Xuân ngã vàng
Đóa hoa chưa quá độ
Sao gọi mùa Xuân sang
Em mang mùa ra phố
Quên trầu thắm hương cau
Đêm thị thành hoa lệ
Đủ sắc màu hỏa châu
Em mang chiều ra phố
Khói sương bay thoảng mờ
Xa vời rồi thơ ấu
Ta neo gì trong mơ
Em mang đời ra phố
Bỏ ta với tình sầu
Bao giờ ta tao ngộ
Khi đời còn bể dâu!
Sáu Miệt Vườn
26/01/2015
Thứ Hai, 5 tháng 2, 2018
THẦY TRẦN THƯƠNG BÁ, GIÁO SƯ DẠY VIỆT VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG - Đoàn Đức
Thầy Trần Thương Bá
Dạy văn lớp Tam C (lớp 10) – Niên Khóa 1964 – 1965
Trường Nguyễn Hoàng từ khi có Đệ Nhị Cấp thì học sinh Đệ Nhất Cấp đeo bảng tên màu đỏ, học sinh Đệ Nhị Cấp bảng tên màu xanh đậm, biên giới giữa 2 cấp là bằng Trung học Đệ Nhất Cấp, còn gọi là bằng Thành Chung, bằng Diplôme; (với bằng này có thể đi thi cán sự y tế và ra trường dư sức nuôi vợ con, nếu đi lính thì mang cấp bậc Trung sĩ.) Vì thế học sinh bảng đỏ chúng tôi kính ngưỡng học sinh bảng xanh Đệ Nhị Cấp là đàn anh hay bậc thầy, vì họ đã đậu Diplôme, và Tú Tài I.
Chúng tôi sau khi thi đậu Diplôme, như qua một thế giới khác – Đệ Nhị Cấp với bảng tên màu xanh dương đậm và được phân ban theo sở thích, năng lực. Ban A: Sinh vật và lý, hóa là môn chính, Ban B: Toán và lý, hóa là môn chính, Ban C: Văn, sinh ngữ 1 là môn chính, hệ số 3, sinh ngữ phụ và sử địa hệ số 2.
Ba đứa bạn thân chúng tôi đành chia lìa: Tôi và Đỗ Tư Nghĩa cùng vào ban C vì kém Toán, Lý, Hóa. Còn Nguyễn Thắng chọn ban B vì giỏi Toán, Lý, Hóa. Thế nên tôi viết về một vị thầy dạy văn có nhiều ấn tượng đối với tôi ở cái tuổi hình thành nhận thức của mình đó là thầy Trần Thương Bá.
Tôi chỉ được học với Thầy về Ca dao và Chinh Phụ Ngâm hơn một học kỳ, bởi sau đó Thầy phải lên đường nhập ngũ.
NHỮNG LỜI THƯỢC DƯỢC... - Trần Mai Ngân
NHỮNG LỜI THƯỢC DƯỢC...
Mùa Xuân đất trời đầy hương hoa !
Dạo làng hoa Sa Đéc, cả mươi cây số hoa là hoa, sắc hương ngộp sắc hương...
Tôi ngơ ngác, hờ hững ! Có lẽ vì nhiều quá, đầy quá... Và thường sau nhiều, đầy luôn lại là một sự trống tênh lạ lùng !
Chụp ảnh - cười, cười - chụp ảnh... Và rồi ra về khi trên bầu trời một vài chùm Sao đã xuất hiện lung linh.
MƯA NẮNG PHẬN NGƯỜI - Thơ Tịnh Đàm
Nhà thơ Tịnh Đàm
MƯA NẮNG PHẬN NGƯỜI
(Thân tặng bác G.T.Điệp)
Vẫn buồn
Như tiếng thở dài,
Vẫn đôi mắt đượm u hoài
Khôn khuây !
Vẫn mong ước
Cuộc sum vầy
Vẫn anh,
Chiếc bóng hao gầy...
Vì đâu !?!
Vẫn chờ đợi,
Đến bạc đầu
Vẫn xa xôi,
Nhớ thương...
Mầu áo xưa !
Vẫn đời,
Sóng gió đẩy đưa...
Vẫn trôi cho đủ...
Nắng mưa phận người !
TỊNH ĐÀM
(Hóc Môn, TP. HCM)
Chủ Nhật, 4 tháng 2, 2018
THƠ SAY - Thơ Châu Thạch
THƠ SAY
(Tặng Khúc Thụy Du)
Ta thấy Kha Tiệm Ly
Thấy Hoàng Anh 79
Thấy chàng La Thuỵ
Thấy cả em Khúc Thụy Du nữa là bốn vị
Tuyệt tác thơ say...
Nghiêng hồ trường chắp cánh để thơ bay
Tình biến rượu hoá thành trăng nghi ngút
Hồn ta thân củi mục
Tẩm hương thơ nở vạn hoa đời
Theo hương kia ta bay vút lên trời
Say nghiêng ngã mửa ra toàn ánh nguyệt
Hồn khoái lạc có những người thân thiết
Cho ta thơ đọc sáng dãy Ngân Hà
Cho ta thơ để ta đọc thiết tha
Để ta gọi họ Hàn đêm đối bóng
Trần gian xấu nên hồn ta cũng hỏng
Cảm ơn thơ cho ta lại làm Người.
Ta thấy em
Thấy chàng La Thụy
Thấy Hoàng Anh 79
Thấy Kha Tiệm Ly
Thơ say nghiêng, nghiêng cả kinh kỳ
Nghiêng núi nghiêng trời nghiêng biển rộng
Thấy đôi cánh rợp cả trời lồng lộng
Bình hồ lô thu tóm hóa hương men
Trút men ra sực nức đến cung hằng
Hương thế kỷ tràn trên đời bạc nhược
Và sự sáng tràn lên trên mỗi bước
Bước của thơ làm nở đến ngàn hoa
Đời bóng đêm bỗng chốc sáng lên lòa
Rơi từng chữ hóa thiên thần nhảy múa
Thấy thơ say bỗng nhiên thành kết tủa
Ngọc và ngà và lệ hóa vào nhau
Thấy nụ cười và thấy cả thương đau
Thấy lóng lánh vần thơ bay, bay mãi
Như chiếc én giữa trời xuân cánh trãi
Như lá thu chao đảo đẹp trời xanh
Như tiếng ve một buổi sáng trong lành
Như cơn gió mênh mang mùa đông lạnh
Cảm ơn thơ, Cảm ơn đời bất hạnh
Cảm ơn em và hết thảy người thơ
Đã đưa ta đến những chốn không ngờ
Ta say quá giữa vô cùng tinh túy.
Châu Thạch
Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2018
BÂNG KHUÂNG - La Thụy cùng thi hữu
BÂNG KHUÂNG
Cuối năm trảy lá cội mai già
Bấc lạnh tàn đông còn buốt da
Ngấn lệ tang con dường chửa nhạt
Ngày hưu chào bạn ngỡ đang xa
Dậu đi, tống cựu bâng khuâng nhỉ!
Tuất đến, nghênh tân man mác a!
Chờ nắng hồng lên cành trổ lộc
Giao thừa canh thức : nhánh đơm hoa
La Thụy
HỌA:
XUÂN LẠI VỀ !
Trảy lá hoàng mai gốc chửa già
Xuân này bảy bảy - tuổi nhăn da
Thi đàn thưa vắng người lui tới
Thi hữu già nua - kẻ biệt xa
Tống cựu năm qua buồn não nuột
Nghinh tân Xuân mới chạnh lòng ta
Giao thừa chẳng đợi cành mai nở
Mồng một nhấp trà ngắm kiểng hoa
Hồ Trọng Trí
3-2-2018
XUÂN TÌNH
Xuân vẫn cười tươi mộng chửa già
Xuân về cảnh vật đổi màu da
Xuân yêu đất Mẹ dù ngăn trở
Xuân quý tình thơ dẫu cách xa
Xuân ước tâm người luôn chính trực
Xuân mong biển thế chẳng phôi pha
Xuân còn trăn trở cùng non nước
Xuân trải lòng mình nở thắm hoa.
Đức Hạnh
03-02-2018
LẶNG THẦM
Thềm hoang lặng lẽ đợi vui già
Lóng ngóng hiên đời ngậm diết da
Lữ thứ cô tình ngâm buốt lạnh
Phương người lẻ bóng tẩm sầu xa
Sóng tương tư vẫn reo hồn nhỉ ?
Bến mộng mơ còn gọi khách a ?
Bảng lảng sương chiều giăng phía nhớ
Xuân mùa giữ hẹn đón ngời hoa…
Lý Đức Quỳnh
4/2/2018
PHẬN HOA - Thơ Đoàn Thuận
Tranh của Deiphine Enjolas
PHẬN HOA
Thu vàng, trôi ngang đông sầu, vào xuân xanh.
Bàn tay gió, khô khua, lá bay trơ cành.
Dù hơi mây giã từ nắng hanh ngày cuối hạ,
Mùa vẫn tự nhiên dạo chơi như lữ hành.
Mầm cây đong đưa trên không trong sương tan
Chưa kịp sinh sôi nở hoa đã úa tàn.
Khi cách ly đất đai, xa mờ nơi trú ngụ.
Dù tấm thân tầm gửi, dù mộng đời phong lan.
Hương trời miên man ngàn xưa còn đâu đây
Vương theo cánh chim phương xa, trên áng mây.
Về cõi hư vô đâu tuổi tên, đâu hình bóng
Nỗi niềm phấn hoa lặng câm bao tháng ngày.
Hoa tàn bên sông, vì đâu, khi sương phiêu bồng?
Hương phai từ hoa, khi nao, một đời hư không?
Người đã xa ta, tại sao, cho vườn hoang vắng?
Cỏ dại ngây ngô, cô liêu, giữa trời đất mênh mông.
Đà Lạt,1968
ĐOÀN THUẬN
Thứ Tư, 31 tháng 1, 2018
TRĂNG CỐ NHÂN - Thơ Võ Thạnh Văn
TRĂNG CỐ NHÂN
Có phải trăng mười năm trước
Vể soi tiệc rượu đêm nay
Trăng nầy, trăng xưa bội ước
Về cười thống hận men cay
Có phải trăng xưa yểu mệnh
Lụy tình treo cổ bên song
Trăng nào, trăng xưa bạc hạnh
Hận tình tự vận ven sông
Có phải trăng xưa bội bạc
Về trau chuốt giọng cuồng ngâm
Phụ tình, trăng xưa đài các
Về khoe xiêm áo xênh xang
Có phải trăng thề cổ độ
Về giăng tình võng truy hoan
Trăng nầy, trăng xưa dang dở
Về gieo hương sắc tân toan
Trăng nào, trăng xưa lơ lẳng
Về phơi hạt bụi đa tình
Lỗi hẹn, trăng xưa lãng đãng
Còn gieo duyên dáng nịch nhân
Kênh kiệu, trăng xưa lơi lả
Về dâng lá ngọc cánh vàng
Ngạo nghễ, trăng xưa vương giả
Khuya về xé lụa ngân vang
Lãng mạn, trăng xưa điệu hạnh
Mời người nhập hội uyên ương
Trăng nào điêu ngoa thái thậm
Về bung tóc lả nghê thường
Vuốt mặt đón trăng bầu bạn
Vỗ bàn cười hát nghênh ngang
Tiếp trăng, đeo gươm hào sảng
Đốt thơ pha rượu uống tràn
Tài hoa, thách trăng múa kiếm
Quan hoài, nài trăng thổi tiêu
Cảm khái, ép trăng say lịm
Mềm lòng, trăng khóc cô liêu
Trăng tao nhân, hề, thất chí
Trăng mặc khách, hề, ưu nhiên
Trăng tráng sĩ, hề, phóng khí
Trăng cố nhân, hề, miên miên
Phù hư dật sĩ
VÕ THẠNH VĂN
1985
Thứ Hai, 29 tháng 1, 2018
CÔ NGUYỄN THỊ THANH, GIÁO SƯ DẠY PHÁP VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG QUẢNG TRỊ - Đoàn Đức
CÔ NGUYỄN THỊ THANH, GIÁO SƯ DẠY PHÁP VĂN
TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG QUẢNG TRỊ
Cô Nguyễn Thị Thanh
Dạy Pháp Văn sinh ngữ 2 Đệ Tam C (Lớp 10) và Đệ Nhị C (Lớp 11)
- Trong hai niên khóa 1964 - 1965, 1965 -1966
Lên Đệ Nhị Cấp, cô Thanh là người tôi rất quý mến, gia đình cô ở Thạch Hãn, quận Mai Lĩnh cùng làng với tôi. Chính nhờ cô mà tôi thích tiếng Pháp, rồi say mê văn chương cùng các trào lưu văn học Pháp từ lãng mạn, siêu thực, tương trưng cho đến hiện sinh. Tuổi thơ Đệ Nhị Cấp tôi miệt mài với các tác phẩm Lettres De Mon Moulin (Lá Thư Hè) của Alphonse Daudet, La Porte Étroite (Khung Cửa Hẹp) La Symphonie Pastorale (Hòa Âm Điền Dã) của André Gide, Bonjour Tristesse (Buồn Ơi Chào Mi), Aimez Vous Brahms (Cô thích nhạc Brahms ?) của Francoise Sagan và Le Malentendu (Ngộ Nhận), Le Vent à Djémila (Gió về Djémila), Le Mythe De Sisyphe (Huyền Thoại Sisyphe) của Albert Camus… là từ sự hướng dẫn dạy dỗ, khơi gợi của nhiều thầy cô, trong đó cô là người chủ yếu.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)