Nguyễn Khuyến (1835- 1909) là một nhà thơ cổ điển lớn của dân tộc, là “sư tổ” của nghệ thuật câu đối Việt Nam. Đồng thời ông còn là một nhà “kinh bang tế thế” mẫn tiệp và chính trực. Năm Tân Mùi (1871) trong kỳ thi Đình ở Kinh Đô Huế, Nguyễn Khuyến đỗ Hoàng Giáp Đình Nguyên (Tam Nguyên) với bài văn sách nổi tiếng. Bài văn sách thi Đình ấy là áng văn sắc sảo vạch trần tệ tham nhũng và tâu vua kế sách chống tham nhũng và cải cách hành chính mạnh bạo.
BÂNG KHUÂNG
Thứ Hai, 29 tháng 1, 2018
Thứ Sáu, 26 tháng 1, 2018
NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA TÔI... - Thơ Trần Mai Ngân
Nhà thơ Trần Mai Ngân
NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA TÔI...
Đèo cao, núi cao
Sông sâu, biển rộng
Tôi đi tìm người đàn bà, đi tìm người đàn bà
Có đôi môi mọng trẻ thơ, đôi môi hồng hồng chỉ biết cười...
chỉ biết cười ngay cả khi lệ rơi...
Trời cao vời vợi
Nhật nguyệt xa xa
Tôi đi tìm người đàn bà, tìm người đàn bà hôm qua
Dưới ánh mặt trời da em như tuyết
Diễm tuyệt, diễm tuyệt... kiêu sa, kiêu sa...
Đôi chân không mỏi
Đi khắp ta bà
Tôi tìm em, tìm em... người đàn bà của tôi
Thất lạc nơi đâu, nơi đâu...
Nhịp sống khác màu
Bắt ta xa nhau
Tôi đi tìm, đi tìm... bốn bể năm châu
Em của tôi đâu, em của tôi đâu
Em ơi ! Em đâu...
Em ơi ! Em đâu...
Người đàn bà của tôi... hôm qua, có đôi mắt nâu, đôi mắt rất sầu...
Em ơi ! Em đâu
Em ơi ! Em đâu...
24-1-2018
Trần Mai Ngân
CHU VƯƠNG MIỆN VIẾT VỀ BÀ CHÚA THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
TIỂU SỬ:
Tên thật Nguyễn Văn Thưởng
Bút hiệu khác Phương Hoa Sử
Sinh ngày 21-11-1941 tại Phục Lễ, Thủy Nguyên, Kiến An .
Vào Nam năm 1954.
Từng theo học tại trường Trung Học Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi...
Từ 1962 đến 1966 : Hạ sĩ quan trừ bị ngành truyền tin
Năm 1966 : Giải ngũ - Công chức hành chánh
Đến Hoa Kỳ năm 1984.
Bắt đầu cầm bút từ đầu thập niên 1960, tác phẩm đăng trên nhiều Tạp chí tại Sài Gòn: Thời Nay, Bách Khoa, Văn Học, Tiền Phong...
TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:
Ðêm Ðen Hai Mươi Tuổi (1964)
Tiếng Hát Việt Nam (1965)
Trường Ca Việt Nam (1966)
Phía Mặt Trời Mọc (1968)
Ðất Nước (1987)
Văn Học Dân Gian (1988)
Tác Phẩm, Tác Giả (1988)
Bằng Hữu (1987).
Thứ Năm, 25 tháng 1, 2018
VUÔNG CHIẾU THI NHÂN XƯA NAY - Thơ Chu Vương Miện
VUÔNG CHIẾU THI NHÂN XƯA NAY
Bà chúa thơ nôm
tọa trên gốc cây đề
trước mặt bày mấy trái mít
tay trái cầm cái quạt
tay phải cầm bát bánh trôi nước
Bà Huyện Thanh Quan
lễ nghi học sĩ
ngôì trên đống gạch hoàng thành
cung miếu triều xưa đổ nát
bên cạnh là một chiếc lồng
nhốt con chim quốc ?
Cụ Hồng Sơn liệp lộ
đang đứng khóc
một tay cầm bản văn tế thập loại chúng sinh
một tay cầm pho bắc hành thi tập
Thứ Ba, 23 tháng 1, 2018
GỌI XUÂN - Thơ Trần Mai Ngân
Nhà thơ Trần Mai Ngân
GỌI XUÂN
Ngực trầm hương em đợi
Anh về gọi mùa Xuân
Thắp lên trái tim lạnh
Buộc sợi tình mong manh...
Anh về gọi mùa Xuân
Thắp lên trái tim lạnh
Buộc sợi tình mong manh...
Ngực căng đầy thanh tân
Thổn thức đêm ba mươi
Bàn tay ai in dấu
Nhành mai chiết năm xưa
Thổn thức đêm ba mươi
Bàn tay ai in dấu
Nhành mai chiết năm xưa
Ngực trầm hương thở vội
Yêu dấu ơi sao vừa...
Xuân non cành lộc biếc
Ta có mùa Xuân chưa
Yêu dấu ơi sao vừa...
Xuân non cành lộc biếc
Ta có mùa Xuân chưa
Bao lần đã đón đưa
Chiều Xuân không trở lại
Em thinh không tình trần
Đợi anh về gọi Xuân...
Trần Mai Ngân
22-01-2018
Chiều Xuân không trở lại
Em thinh không tình trần
Đợi anh về gọi Xuân...
Trần Mai Ngân
22-01-2018
Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018
CÔ NGUYỄN THỊ NHÃ, GIÁO SƯ DẠY VIỆT VĂN TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG - Đoàn Đức
CÔ NGUYỄN THỊ NHÃ
(Dạy Việt Văn lớp Đệ Lục 2 (Lớp 7) và Đệ Tứ 2 (Lớp 9), NK 1961-1964 - Chủ nhiệm lớp Đệ Tứ 2)
Cô giáo thời Đệ Nhất Cấp tôi quý mến nhất là cô Nguyễn Thị Nhã, là người chú tâm huấn luyện học sinh giỏi luật thơ và trở thành người biết phê bình văn học. Năm Đệ Lục, khi dạy thơ Bà Huyện Thanh Quan cô giảng luật thơ Đường Thất ngôn bát cú rất kỹ, cô nói thể thơ gồm bảy chữ tám câu, luật trắc vần bằng và luật bằng vần bằng. Thứ tự câu gồm : Phá đề, thừa đề, thực, luận và kết. Về niêm thì chữ thứ hai câu một niêm với chữ thứ hai câu tám, câu hai niêm với câu ba, câu bốn niêm với năm và câu sáu niêm với bảy, và cùng thanh bằng hay trắc. Về đối thì chỉ đối ở hai câu thực và hai câu luận. Khi đối thì danh từ đối với danh từ, động từ với động từ, trạng từ đối với trạng từ; từ Việt đối vời từ Việt, từ Hán đối với từ Hán; và còn phải đối ý nữa :
Gác mái ngư ông về viễn phố.
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
(Chiều Hôm Nhớ Nhà)
LA GI, LAI LỊCH MỘT VÙNG ĐẤT - Phan Chính
LA GI, LAI LỊCH MỘT VÙNG ĐẤT
La Gi
ngày xưa là phần đất nằm dọc bờ sông Dinh có dịch trạm Thuận Phước ở làng Phước
Lộc, nằm trong hệ thống dịch trạm dưới triều Nguyễn trung hưng. Địa giới La Gi
thời ấy bao trùm phần đất của các phường xã Phước Hội, Phước Lộc, Tân Thiện, Tân
Phước, Tân An, Tân Bình, BìnhTân bây giờ… Khi thành lập huyện Hàm Tân (1916) do
trụ sở huyện đặt tại làng Hàm Tân (trước đó thuộc tổng Đức Thắng, thổ huyện Tuy
Lý- sau sáp nhập và đổi sang phủ Hàm Thuận thống hạt, tỉnh Bình Thuận) nên trở
thành tên huyện. Cũng từ đó, lỵ sở huyện Hàm Tân nằm trên địa bàn làng Hàm Tân,
tổng Phước Thắng, huyện Hàm Tân (từ năm 1910 đơn vị hành chánh Phủ và Huyện
ngang nhau). Huyện Hàm Tân được thành lập gồm 2 tổng Phong Điền và Phước Thắng
không còn trực thuộc phủ Hàm Thuận. Tổng Phong Điền có địa giới từ phía tả ngạn
sông Dinh kéo dài lên các làng Tam Tân, Hiệp Nghĩa, Phong Điền và Thạnh Mỹ,Văn
Kê. Tổng Phước Thắng từ hữu ngạn sông Dinh, gồm các làng Hàm Tân, Phước Lộc
(địa bàn La Gi) đến Cù My, Thắng Hải giáp với Xuyên Mộc.
THI PHẨM KINH VÔ THƯỜNG CỦA VÕ THẠNH VĂN
Tiểu tự của tác giả nhân ngày hoàn thành CÁT BỤI #10 của toàn bộ thi phẩm KINH VÔ THƯỜNG.
KINH VÔ THƯỜNG là lời kêu thương bi thống của một kiếp nhân sinh bi lụy trong cõi trần bi ai. Đó là lời ca cùng tột bi tráng chứa đựng ngậm ngùi chất ngất đau thương của những tâm hồn vươn lên từ nỗi bi thiết thường hằng.
Từng chữ trong KINH VÔ THƯỜNG là từng bước chân rời rạc rã riêng của hành trình đi vào tâm thức, một tâm thức tuyệt đối cô đơn khép kín riêng tư. Từng chữ, từng lời là những bước chân hành giả trên đường hành hương, ngơ ngác dọ dẫm đi vào tự thức để tìm lại chính mình.
Nhìn lại cho rõ chính mình, cái bản lai diện mục, là nhận diện nỗi bi thương to lớn của kiếp nhân sinh. Nỗi bi thương to lớn ấy chính là con người đã đánh mất bản thể từ lúc chưa sinh. Từ đó, con người hoang mang và miệt mài tìm kiếm chính mình trong huyễn vọng.
Chủ Nhật, 21 tháng 1, 2018
CẢM TÁC ẢNH TRẦN MAI NGÂN - Thơ Châu Thạch
CẢM TÁC ẢNH TRẦN MAI NGÂN
Em áo đỏ trước cổng chùa sơn đỏ
Và dưới hoa cũng sắc thắm một màu
Dáng của người như dáng đứng hàng cau
Hàn Mạc Tử đã gợi hồn thôn Vỹ
Em không Huế mà trông như gái Huế
Biết bao nhiêu duyên dáng đất kinh thành
Chỉ một nhìn đã biết vạn màu thanh
Và nếu ngắm nhớ bao nàng công chúa
Em có cả một tâm hồn tơ lụa
Kén cho đời dệt mãi vạn ngàn thơ
Hương cho đời trải thảm dưới trăng mơ
Tình cho gió bay cao vời mộng ước
Em còn cả một tâm hồn sông nước
Đất miền Nam trù phú ruộng phù sa
Những đàn cò cất cánh giữa bao la
Em cô gái thơm tho mùi gạo trắng
Ta quý em với tình yêu của nắng
Gởi về em trân trọng của người anh
Không cùng cha nhưng cùng nghĩa trọn lành
Là tri kỷ, là thơ, là vẻ đẹp!!!
Châu Thạch
Thứ Bảy, 20 tháng 1, 2018
UỐNG RƯỢU VỚI PHÀN KHOÁI - Thơ Kha Tiệm Ly
Nhà thơ Kha Tiệm Ly
UỐNG RƯỢU VỚI PHÀN KHOÁI
Gặp nhau đây mới biết địa cầu chưa đủ lớn,
Để chứa bước chân hào kiệt muốn tìm nhau
Hay cho câu “đồng thanh tương ứng”
Hay cho câu “đồng khí tương cầu”!
Ngàn năm chưa dễ được duyên kỳ ngộ,
Rượu tương phùng sao chẳng cạn thiên bôi?
Lời chính khí nén trong lòng ăm ắp
Nay tung ra, lệch núi nghiêng đồi!
Nào ai biết non cao nghìn trượng?
Nào ai hay biển vạn trùng sâu.?
Đao mổ lợn tàng tàng đao danh tướng,
Áo rách vai lồ lộ áo công hầu.
Đệ ngao ngán nhìn thằng hề múa may chữ nghĩa,
Ta ôm bụng cười lũ khỉ khoa gươm!
Võ nghệ mèo quào mà ba hoa lếu láo
Văn ba xu đã mang thói điếm đàng!
Thời tao loạn mới biết ai hào kiệt
Ai trí, ai ngu, ai dũng, ai hèn.
Chớ đắp điếm vì người sau vẫn biết,
Ai ngợm, ai người, ai trắng, ai đen!
Vô lại tiểu nhân ngày ngày trơ mặt
Lọc lừa nhau, giành giật đỉnh chung
Rượu nghĩa khí nằm trong bầu kín nút
Cũng muốn vọt ra cùng luận anh hùng!
Rựơu hảo hán rót bung trời hảo hán!
Gươm hùng anh mài bén dạ hùng anh!
Cùng ước hẹn một ngày mai xán lạn ,
Bút dọc gươm ngang, thỏa sức tung hoành.
Lúc mạt lộ khó vá trời mảng lớn
Chí gởi non cao mà vận bất phùng thời.
Nhằm vào buổi trí ngu đảo lộn,
Thì hiền tài chẳng khác thứ đồ chơi!
Kha Tiệm Ly
(Thơ Túi Rượu Bầu)
Rượu tương phùng sao chẳng cạn thiên bôi?
Lời chính khí nén trong lòng ăm ắp
Nay tung ra, lệch núi nghiêng đồi!
Nào ai biết non cao nghìn trượng?
Nào ai hay biển vạn trùng sâu.?
Đao mổ lợn tàng tàng đao danh tướng,
Áo rách vai lồ lộ áo công hầu.
Đệ ngao ngán nhìn thằng hề múa may chữ nghĩa,
Ta ôm bụng cười lũ khỉ khoa gươm!
Võ nghệ mèo quào mà ba hoa lếu láo
Văn ba xu đã mang thói điếm đàng!
Thời tao loạn mới biết ai hào kiệt
Ai trí, ai ngu, ai dũng, ai hèn.
Chớ đắp điếm vì người sau vẫn biết,
Ai ngợm, ai người, ai trắng, ai đen!
Vô lại tiểu nhân ngày ngày trơ mặt
Lọc lừa nhau, giành giật đỉnh chung
Rượu nghĩa khí nằm trong bầu kín nút
Cũng muốn vọt ra cùng luận anh hùng!
Rựơu hảo hán rót bung trời hảo hán!
Gươm hùng anh mài bén dạ hùng anh!
Cùng ước hẹn một ngày mai xán lạn ,
Bút dọc gươm ngang, thỏa sức tung hoành.
Lúc mạt lộ khó vá trời mảng lớn
Chí gởi non cao mà vận bất phùng thời.
Nhằm vào buổi trí ngu đảo lộn,
Thì hiền tài chẳng khác thứ đồ chơi!
Kha Tiệm Ly
(Thơ Túi Rượu Bầu)
Thứ Sáu, 19 tháng 1, 2018
BẢY MƯƠI TƯ ANH HÙNG NĂM BẢY MƯƠI TƯ (19/1/1974-19/1/2018) - Thơ Trần Mạnh Hảo
NHÂN KỶ NIỆM
44 NĂM NGÀY HẢI CHIẾN HOÀNG SA 19-1-1974 — 19-1-2018 : KHI GIẶC TRUNG CỘNG TRÀN
VÀO CHIẾM ĐẢO, ĐÃ BỊ HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HÒA ANH HÙNG KHÁNG CỰ QUYẾT LIỆT;
NHƯNG VÌ LỰC LƯỢNG MÌNH QUÁ MỎNG NÊN PHẢI RÚT TRƯỚC BIỂN NGƯỜI CỦA BỌN GIẶC
PHƯƠNG BẮC.
Tưởng nhớ 74 chiến sĩ anh hùng của hải
quân Việt Nam Cộng Hòa đã hi sinh anh dũng trong trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa
ngày 19/1/1974
BẢY MƯƠI TƯ ANH HÙNG
NĂM BẢY MƯƠI TƯ
(19/1/1974 - 19/1/2018)
Ai chết vì lý tưởng lý tung?
– Các anh chết vì Tổ Quốc!
Năm bảy tư của bảy tư anh hùng
Linh hồn các anh bạc đầu sóng nước
Hoàng Sa Trường Sa máu Việt gầm rung
Các anh làm tàu giặc nổ tung
Giặc trùng trùng vây bủa
Biển nổi khùng
Sóng đánh nghìn lưỡi búa
Biển òa thương ôm xác các anh nằm
Hỡi năm bảy mươi lăm
Hãy quay đầu bái vọng năm bảy mươi tư
Thắp cho các anh hùng nhang khói
Ai dâng đảo cho Tàu?
Các anh không thèm nói
Gió thét gào nước Việt vẫn còn đau
Sài Gòn 8-1-2014
Trần Mạnh Hảo
Thứ Năm, 11 tháng 1, 2018
ĐỌC “TRÊN BỤC GIẢNG NGÀY NÀO” THƠ LÃNG UYỄN CHÂU - Châu Thạch
Nhà bình thơ Châu Thạch
ĐỌC “TRÊN BỤC GIẢNG NGÀY NÀO”
THƠ LÃNG UYỄN CHÂU
Châu Thạch
Hôm nay là một ngày hạnh phúc với tôi. Buổi sáng đọc được bài thơ “Người lính già chống gậy đón xuân” của Dư Mỹ. Cảm động viết ngay lời bình. Buổi trưa nằm trên giường chơi facebook qua chiếc điện thoại. Vừa lim dim muốn ngủ thì chợt tỉnh ngay bởi bài thơ “Trên bục giảng ngày nào” của Lãng Uyển Châu. Bài thơ lạ ở chổ nói về nhà giáo mà chẳng thấy gì là mô phạm, nghĩa là nó không chịu cái chuẩn mực của những bài thơ viết về nhà giáo. Tất nhiên tác giả cũng phải dùng những cụm từ như bục giảng, phấn trắng, sân trường để nói đến quãng đời dạy học. Tuy nhiên những cụm từ đó được đặt trong một lồng kính lạ của những tứ thơ rất mới, thoát cái xác khô cứng đạo mạo của vị thầy và hóa hình họ vào trong những vẻ đẹp thắm tươi đầy thơ mộng và đầy sinh lực. Bài thơ chỉ có ba khổ thơ, khổ thơ đầu đưa ta bước vào một mùa khai giảng:
Thứ Tư, 10 tháng 1, 2018
TRÊN BỤC GIẢNG NGÀY NÀO - Thơ Lãng Uyển Châu
TRÊN BỤC GIẢNG NGÀY NÀO
Dù nhắm mắt lại thật lâu đi nữa
Vẫn dáng tôi trên bục giảng ngày nào
Của một thời mơ lá gió xôn xao
Của hoa cỏ đầu thu còn khép nép...
Tôi đứng đấy thuở mộng đời ngoan đẹp
Nét thanh xuân làm bạn áo trắng quen
Thu đã về bên bảng phấn bao phen
Cơ hồ tiếng giảng bài quanh cửa lớp
Nhắm mắt lại... ôi, một mùa nắng ngợp
Vẫn chói chang cánh phượng vỹ sân trường
Xuân đã về bao tim ngợp yêu thương
Đông se lạnh ôm trùm muôn nỗi nhớ !!
Lãng Uyển Châu
(2003)
Thứ Ba, 9 tháng 1, 2018
NGƯỜI VỀ - Thơ Trần Mai Ngân
Nhà thơ Trần Mai Ngân
NGƯỜI VỀ
Người khiêng mang tảng đá
Xây thành lũy hư vô
Trần gian cứ mơ hồ
Tôi là ai mắt lệ...
Người vác khuân thập tự
Nghiêng ngả bước chân tình
Đi nốt đoạn tử sinh
Tim nương náu bóng hình...
Người lặng thinh, lặng thinh
Trôi theo cùng năm tháng
Những dòng sông hiện sinh
Rong rêu phủ phận mình
Người mỉm cười, mỉm cười
Nơi cửa trời thênh thang
Một bóng hình miên man
Gần trăm năm tuyệt vọng
Người về... mây thong dong
Trả trần gian ở lại
Chân thành dốc hết lòng
Khi làm người đi qua !
9-1-2018
Trần Mai Ngân KTD
Nghiêng ngả bước chân tình
Đi nốt đoạn tử sinh
Tim nương náu bóng hình...
Người lặng thinh, lặng thinh
Trôi theo cùng năm tháng
Những dòng sông hiện sinh
Rong rêu phủ phận mình
Người mỉm cười, mỉm cười
Nơi cửa trời thênh thang
Một bóng hình miên man
Gần trăm năm tuyệt vọng
Người về... mây thong dong
Trả trần gian ở lại
Chân thành dốc hết lòng
Khi làm người đi qua !
9-1-2018
Trần Mai Ngân KTD
THẦY TRƯƠNG NGỌC HỘI, NGƯỜI THẦY KỲ LẠ DẠY ANH VĂN LỚP ĐỆ NGŨ 2, NK 1962-1963 - Đoàn Đức
THẦY TRƯƠNG NGỌC HỘI - NGƯỜI THẦY KỲ LẠ DẠY ANH VĂN LỚP ĐỆ NGŨ 2, TRƯỜNG NGUYỄN HOÀNG
NIÊN KHÓA 1962 - 1963
Thầy người ốm dáng cao da ngăm, tóc chải vuốt, thích mặc áo màu rêu. Đến trường, thầy ít giao tiếp với các thầy cô khác, bao giờ cũng như con sếu cô độc. Ở trường Nguyễn Hoàng thầy dạy tiếng Anh, nhưng dạy thêm “cua” toán ở trường nữ Phước Môn thì thầy lấy tên là Hoàng Ly Yến. Nghĩa và tôi đoán mò, người tình của thầy là Yến hay Hoàng Yến vì biệt hiệu trên là “Hội loves Yến” chúng tôi cũng thỉnh thoảng gọi thầy bằng tên này và nói cho thầy biết cách giải thích trên, thầy chỉ cười vui, nụ cười đó hàm ý mắng chúng tôi “đồ ranh con mà”.
Thầy Hội dạy không theo chương trình, mà dạy theo ý thầy. Thầy dạy thơ và đoạn trích từ các truyện dài hay ngắn Tiếng Anh. Con nít lớp Đệ Ngũ (lớp 8) mà học thơ tình của Lord Byron, John Keats. Nếu bây giờ, cách dạy như vậy sẽ bị đưa lên báo, lên mạng và bị phê bình, kiểm điểm là điều chắc chắn. Với chúng tôi nhờ thế mà sau này lên lớp Đệ Nhất (12) và vào đại học Anh Văn lại trở nên quen thuộc với văn chương Anh Mỹ. Tôi xin ghi lại phần lớn những bài dạy và lời giảng của thầy theo trí nhớ của mình.
Chủ Nhật, 7 tháng 1, 2018
CẢM TƯỞNG KHI ĐỌC "ĐOÀN ĐỨC, HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO” - Bản Tiếng Anh của thầy Hồ Sĩ Châm
Bản viết bằng tiếng Anh CẢM TƯỞNG KHI ĐỌC "ĐOÀN ĐỨC - HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO” của thầy Hồ Sĩ Châm.
Mời xem bản Tiếng Việt ở phía dưới
THE IMPRESSION ON READING
"REMINISCENCES OF TEACHERS"
Translated by Ho Si Cham
Writing this is not for me personally and I would like ask for permission to represent the colleagues who had taught at Nguyen Hoang High school the same time with me.
Mời xem bản Tiếng Việt ở phía dưới
THE IMPRESSION ON READING
"REMINISCENCES OF TEACHERS"
Translated by Ho Si Cham
Writing this is not for me personally and I would like ask for permission to represent the colleagues who had taught at Nguyen Hoang High school the same time with me.
Thứ Năm, 4 tháng 1, 2018
RU NHAU - Thơ Giáng Thu Xưa
RU NHAU
Ru nhau chung bóng tình trao
Giang tay ôm lấy đượm bao tình hồng
Yêu nhau ấp ủ say nồng
Vòng tay khép chặt chờ trong nỗi niềm
Quyện hoà chất ngất đượm êm
Mỉm cười qua mắt viền mi rủ mềm
Xoãi mình thảm cỏ vào đêm
Kết thành giọt nhớ êm đềm anh, em
Trăng khuya gió quyện bên thềm
Mành buông trải giấc thâu đêm diễm tình
Vờm trời ló dạng bình minh
Niềm vui chưa tỏ chúng mình lại xa
Buồn vui vây kín quanh ta
Chân đi lòng dạ chút pha lệ trào
Bao giờ chung bóng rượu đào?
Thì ta dệt lại tình giao ước thề...!
Giáng Thu Xưa
03- 01-2018
Thứ Ba, 2 tháng 1, 2018
THÁNG GIÊNG VỀ - Thơ Trần Mai Ngân
THÁNG GIÊNG VỀ
Tháng Giêng về ai quên ai nhớ
Dáng em như sương mộng quanh đây
Nhịp cầu xưa nỗi nhớ sum vầy
Tôi thắp nến tháng Giêng mở cửa...
Tháng Giêng về tình tôi ở giữa
Nửa bên nầy nhớ nửa bên kia
Như trăng non khuyết cứ vơi đầy
Thức giấc rồi mộng chữa thật say!
Tháng Giêng về ôm tình hai tay
Ghì xiết chặt xin đừng xa nữa
Để chúng ta mãi là đôi lứa
Của ông bà nguyệt lão se tơ
Tháng Giêng về đẹp một bài thơ
Mà chỉ có em, tôi là chính
Như hoa bướm dập dờn luýnh quýnh
Tháng Giêng tình là cặp môi ngon
Và đôi ta như thể vẫn còn
Còn thương nhớ dìu nhau cõi mộng!
Tặng tháng Giêng tôi
Trần Mai Ngân
Thứ Hai, 1 tháng 1, 2018
THÁNG GIÊNG TÌNH - Thơ Trần Mai Ngân
Nhà thơ Trần Mai Ngân
THÁNG GIÊNG TÌNH
Tháng Giêng, tháng Giêng...
Chạm vào anh, chạm vào em kỉ niệm
Thắp nến lên cho sinh nhật đôi lần
Nắm đôi tay để ta nhớ rất gần
Nào xa cách nào có đâu dịu vợi...
Tháng Giêng , tháng Giêng
Em bao giờ vẫn mãi chờ mãi đợi
Nụ cười xuân tươi cả đất trời Xuân
Em bâng khuâng, nhịp bước cứ bâng khuâng
Chiếc cầu cũ bến xưa thuyền neo đậu
Tháng Giêng, tháng Giêng
Gọi tên anh... anh đâu, em ở đâu
Sông đầy thế mênh mông cùng con nước
Lục Bình trôi xếp hàng tình sau trước
Dửng dưng đời của duyên phận chia ly
Tháng Giêng, tháng Giêng
Mãi mãi nha anh không nói phân kỳ
Dẫu năm tháng mỏi mòn ai có hiểu
Lòng em chắc dù đời không bền vững
Biết làm sao... em chìm nổi vì anh
Tháng Giêng, tháng Giêng
Trời rất xanh mây rất trắng bồng bềnh
Thắp nến sáng chảy tan dòng định mệnh
Tình cứ thế lung linh không chạm đến
Dù trái tim đã thổn thức nhau rồi
Tháng Giêng, tháng Giêng
Thơm ngọt ngào là những nụ hôn môi
Hương bát ngát tình xa xôi vẫn đợi!
Ngày đầu Xuân 1-1-2018 cho một tình yêu
Trần Mai Ngân KTD
Trần Mai Ngân KTD
HOÀI VƯƠNG KỶ NIỆM - Thơ Giáng Thu Xưa
HOÀI VƯƠNG KỶ NIỆM
Giá như tìm thấy sớm hơn
Thì nay đâu phải tủi hờn chia đôi
Sương khuya rớt lạnh ngoài trời
Hoà trong cô tịch chơi vơi nỗi buồn
Lắng lòng mỏi đợi uyên ương
Bao năm cách biệt yêu thương mãi còn
Nhớ anh từng phút héo mòn
Canh trường lẽ bóng ngõ hồn thẫm sâu
Tưởng chừng như vẫn bên nhau
Say men hạnh phúc gối đầu môi trao
Nụ hôn chất ngất ngọt ngào
Ru ân luyến ái tim xao đượm tình
Mãi chìm giấc mộng đêm thinh
Một cơn gió nhẹ thình lình phớt qua
Làm cho điệp giấc chỉ là
Hoài vương kỷ niệm nhạt nhoà trong em...!
... Anh à…!
Giáng Thu Xưa
01-01-2018
Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2017
SUY NGHĨ VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG THƠ (THẨM THƠ CÁNH ĐỒNG -NGUYỄN ĐỨC TÙNG) - Nguyên Lạc
Tác giả Nguyên Lạc
Phần I
SUY NGHĨ VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG THƠ
Xin được sơ lược về quan niệm thơ và những điều cần thiết cho sự thẩm nghiệm (BÌNH) thơ của riêng tôi.
THƠ LÀ GÌ?
Ngài Bùi Giáng đã nói đại để như sau:
"Con cá thì ta biết nó lội, con chim thì ta biết nó bay, nhưng thơ là gì thì đó là điều mà ta không biết được"
Ngài nói chơi chứ biết quá đi thôi. Tính ngài ưa giỡn nên "lửng lơ con cá vàng" như vậy!
Thôi tui đành nhờ ông Nguyễn Hưng Quốc vậy:
"Thơ là một cảm xúc đi tìm một đồng cảm. Thơ là tiếng nói một người nhân danh tất cả mọi người trong hoàn cảnh ấy, số phận ấy."
Và ông giải thích thêm:
[ Đó là sự đồng cảm giữa con người với nhau nói chung. Đó là mối "tương liên" giữa thế hệ này với thế hệ khác, giữa thế kỷ này với thế kỷ khác. Đó là những giọt nước mắt con người ứa ra qua những "tam bách dư niên hậu". Lại nhớ đến Nguyễn Du.
Nguyễn Du viết về Đỗ Phủ:
Dị đại tương liên không sái lệ
(Khác thời đại thương nhau ứa nước mắt)
Đỗ Phủ sinh năm 712 và mất năm 770 ở Trung Hoa. Nguyễn Du sinh năm 1766 và mất năm 1820 ở Việt Nam. Tính theo năm sinh, Nguyễn Du ra đời muộn hơn Đỗ Phủ 1.054 năm. Thế nhưng hai người gần nhau biết mấy. Đêm đêm hồn Nguyễn Du vẫn nằm mộng trong những vần thơ Đỗ Phủ (Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi). Bao nhiêu khoảng cách bỗng bị xoá nhoà. "Cách hàng ngàn năm gặp gỡ, tâm sự vẫn giống nhau"(Thiên cổ tương phùng lưỡng bất vi).
Thứ Sáu, 29 tháng 12, 2017
CÓ MỘT DÒNG SÔNG ĐÃ QUA ĐỜI... - Trần Mai Ngân
Tác giả Trần Mai Ngân
CÓ MỘT DÒNG SÔNG ĐÃ QUA ĐỜI...
Có một dòng sông đã qua đời đêm qua trong giấc mơ của tôi.
Dòng nước mênh mông thuở nào giờ đây đã cạn kiệt, đám rong rêu Lục Bình cũng gửi phận mình nơi đó và chết khô ! Tôi trở về ngồi khóc một dòng sông...
Mới hôm qua thôi tôi đã nói với dòng sông về thân phận một con người từ lúc được chào đời đến lúc tuổi thu vàng nhạt. Con người đó đã thôi không còn đau khổ, không còn buồn vui... Con người đó đã gửi gắm tất cả vào dòng sông hãy mang đi và lưu giữ.
Bây giờ, con sông không còn nữa và người đó sẽ ra sao với những lận đận, bộn bề... Tôi bỗng khóc !
Nước mắt lăn dài để tang cho một dòng sông đã cùng tôi cùng người.
Còn đâu, còn đâu nữa. Dòng sông đã qua đời đêm nay trong giấc mơ mà tôi không sao thức giấc được...
Giấc mơ miên man...
Trần Mai Ngân
CẢM TÀN ĐÔNG PHÚ - Lê Đăng Mành
Tác giả Lê Đăng Mành
CẢM TÀN ĐÔNG PHÚ
Tháng chạp lạnh lùng
Ngày đông rét buốt.
Lũ lụt - Còn đọng ngấn, tủi lọn bãi bờ
Phù sa – Vẫn lưu bùn,đau triền sông nước
Hun hút - Cánh cò quạt gió tẩm đến bơ phờ
Mênh mang - Ánh nguyệt luồn mây dầm lên sướt mướt
Trước ngõ - Không bóng vãng lai
Trên đường - Chẳng người cất bước
Trâu nghé - Nhìn đê cỏ nhuộm bùn non lơ láo, cũng nhớ nhung
Lợn gà - Thấy sắn khoai dầm nước bạc sượng sùng, mà thương tiếc
Nhớ xưa !
Mẹ lẩy bẩy-Trong bếp thổi lửa mun khói ủ, ngan ngát vị quê hương
Cha co ro - Giữa đồng huơ con cúi rơm vùi, thơm tho tình đất nước
Cây phạng - Vung lên cơ bắp cuồn cuộn giữ mảnh uy phong
Con cày - Xốc tới tinh thần thủ phận lưu danh lẫm liệt...
Nghèo khó - Xóm giềng chia sẻ với dạ ân cần
Cơ hàn - Làng mạc chan hòa với lòng tha thiết
Mong thay !
Nồi điện - Không un khói, mong gom trí tuệ mãi thăng hoa
Bếp ga - Chẳng ủ mun, ước gìn nghĩa nhân đừng bế tắc.
Cửa phủ - Thôi tung tẩy nhũng nhiễu để tranh giành
Sân trường - Bớt múa may quấy rầy hòng cướp giựt.
Băng hoại - Nên dừng ngoài cửa mầm non
Hư hao - Hãy chặn trước đường giáo dục.
Thứ Năm, 28 tháng 12, 2017
CHÙM THƠ TRƯƠNG ĐÌNH ĐĂNG
Nhà thơ Trương Đình Đăng
TÌM
Thế gian
ai khóc
ai cười
Ta ngồi đây
với quanh đời
nhiễu nhương.
Từ em
lạc giữa vô thường
Ta như cỏ dại
gió sương
võ vàng.
Đâu trần tục
đâu thiên đàng
Biết tìm đâu
giữa dối gian
cõi người ?
7/2011
TƠ CHIỀU
Cố gỡ
sao lòng mãi rối tơ
Bờ mê
bến giác
trắng sương mờ
Nằm nghe
âm vọng ngoài vô tận
Lắng tiếng ru đời
đắng giọt thơ !
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)