BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 17 tháng 12, 2019

HƯƠNG ĐẤT - Thơ Lê Kim Thượng


        
            Nhà thơ Lê Kim Thượng


HƯƠNG ĐẤT

Người thôi dạo bước phong sương
Thôi bôn ba mấy nẻo đường thế gian
Đời tàn... mộng ảo cũng tàn
Lui về vui với xóm làng Cố Hương
Nước sông, gạo chợ, củi vườn…
Trưa vàng, chiều tím, thân thương quê nghèo…                  
                                       
Vi vu gió thổi qua đèo
Thôn xa đồng vắng, nắng treo bóng dừa
Mùi hương đất mới thoảng đưa
Bờ Lau rũ bến sông xưa nắng hè
Cò về đậu trắng hàng tre
Lạc bầy tiếng Cuốc vẳng nghe thất thường
Hoa cau rụng trắng sân vườn
Gió lay lay… thả làn hương trăm miền
Đường thôn quạnh quẽ ngõ xiên
Áo Bà Ba dáng dịu hiền mong manh
Ngu ngơ vườn mộng mình anh
Chiều tà ai thả khói xanh bồn chồn
Nắng chiều rơi nhẹ vào hồn
Một mình… một bóng hoàng hôn qua đời…
                                      
Bao năm quên mất tiếng cười
Rượu không đủ ấm cho người gian nan
Đêm qua… điếu thuốc cũng tàn
Ngồi buồn thèm ngắm một làn khói đưa
Ngoài hiên đêm lạnh rơi mưa
Nghiêng chao nỗi nhớ, tình xưa mơ màng
Đèn khuya bóng lã, bấc tàn
Chợt nghe hương tỏa Dạ Lan thắm đằm
Giường đôi… lạnh một chỗ nằm
Vọng đêm khuya… tiếng gọi thầm Cố Nhân…

                           Nha Trang, tháng 12. 2019
                                LÊ KIM THƯỢNG

NHỮNG CÁCH THAY ĐỔI VẬN MỆNH ĐỜI NGƯỜI - Đào Anh Dũng


          Nếu như “Mệnh” là do Trời định trước, thì “Vận” lại nằm trong tay mỗi người. 
          Vậy chúng ta làm thế nào để có thể cải biến vận mệnh của mình?

NHỮNG CÁCH THAY ĐỔI VẬN MỆNH ĐỜI NGƯỜI
                                                                                 Đào Anh Dũng

Quan điểm của phương Đông về số phận dường như là một phạm trù đã được an bài, Mệnh và Vận đã được định đoạt sẵn, con người không thể nào vượt qua được số phận. Nhưng cũng cùng lúc đó các nhà học giả cho rằng Đức năng thắng số, khuyên con người hành thiện sẽ cải được mệnh vận, trả được nghiệp quả và có một cuộc đời an bình hơn.

Thứ Hai, 16 tháng 12, 2019

VÌ SAO TÔI YÊU ANH - Thơ Lệ Hoa Trần


     


VÌ SAO TÔI YÊU ANH

Trong ánh mắt một lần ta gặp gỡ
Đã vô tình tỏa sáng trái tim tôi
Phút đầu tiên tôi bỗng chợt bồi hồi
Đêm thao thức trở trăn rồi trăn trở

Lời anh nói bên tai tôi ngày đó
Nghe u buồn dịu ngọt biết bao nhiêu
Càng gần anh tôi càng thấy thương nhiều
Lòng chân thật đã từ từ hiện hữu

Trong khoảnh khắc lòng tôi luôn tự nhủ
Có vội vàng trước hai chữ đúng, sai
Thời gian trôi như nước chảy sông dài
Anh vẫn mãi như ngày đầu đến hẹn

Rồi từ đó tôi không còn bẽn lẽn
Trao ân tình trao cả những niềm tin.

                                    Lệ Hoa Trần
                                    15-12-2019

Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2019

ĐÔNG VỀ NHỚ NHỮNG ĐÔNG NAO ! - Thơ Văn Thiên Tùng


   


ĐÔNG VỀ NHỚ NHỮNG ĐÔNG NAO !

Mưa đầu đông se se buốt buốt
Gió đầu mùa lướt thướt hanh heo
Nắng cười mưa khóc lần theo
Thương sao! nhớ lắm quê nghèo thuở nao !

Theo chân mẹ cha vào đồi trọc
Những bụi sim trơ gốc ra tay
Hì hục… đào bới cả ngày
Gánh về dự trữ chất đầy gác hiên

Tiết Đại Hàn quả nhiên rét đậm
Công việc đồng nào chậm được đâu
Cấy cày biền bại nông sâu
Chân bùn tay lấm dãi dầu sớm trưa

Bếp than chiều cũng vừa nhúm đỏ
Trâu về chuồng nhai cỏ đằm rơm
Củi hừng hực nựng niêu cơm
Tréc bắp rang nổ lựng thơm gọi mời

Bên chụm kiềng than cời tỏa ấm
Cả nhà đồng quay chụm bên nhau
Cùng mài sắn bột đầy thau
Bánh xèo, bánh ép,… chốc sau có liền…

Cảnh quê xưa dịu hiền đáng mến
Mái tranh chiều quyến luyến bên nhau
Mâm cơm ấm dậm sắc màu
Hương đồng cỏ nội… mắm rau… ấm lòng

Quả củi sim than hồng đượm lửa
Lại gần kề từng bữa bếp đông
Nào quên một thuở cha ông
Lên non bới gộc gánh gồng về xuôi

Những đồi sim tốt tươi mọng quả
Mỗi xuân sang tím bủa trời mây
Hạ qua thu vãn dạn dày
Sim luôn là bạn đong đầy chợ quê…

Mỗi cung tiết đuề huề mỗi sắc
Nụ mầm hoa khỏe chắc pha màu
Thương thay thân gộc dãi dầu
Chắt chiu dinh chất tô màu thế nhân

             Mai Vân - Văn Thiên Tùng
                          25/11/2018

P/s:
“Quê mình những đồi sim bạt ngàn, kéo dài liên đồi rừng các vùng cận sơn như Khe khế, La Vang, Nà Mè cho tới tần vùng cát Sắt ( K4) lên đến vùng Trâm Trái, Ái từ, Cam Lộ đều là những đồi sim ... một màu tím biến đồi theo thời gian từ lúc hừng sáng đến khi chiều tối và nhiệt độ trong ngày nữa nên chuyển từ màu nhạt,tím hồng rồi tím biếc và tím sẫm biếc đan xen các vạt mua dưới nà và mỗi cuối hạ quả sim là nguồn trái cây rừng ưa thích nhất, không thể thiếu ở các chợ quê, chợ tỉnh.
Qua Thu Đông, những gốc sim cội, hay nhưng cây sim già trở thành chất đốt để sưởi ấm qua suốt mùa đông. bởi vì than cui sim rất hừng và củi sim rất đượm.sau cây thanh ngạnh ( màng nghẹng) Nhất là gốc của nó. Và mỗi cuối thu nhà nhà sáng sớm, cơm mo muối tiêu ớt cuốc triêng gánh lên núi đào, bới gốc sim về dự trữ làm củiđốt qua hết Giêng hai”.


                     

           

EM TIN - Thơ Trần Mai Ngân


    
                Nhà thơ Trần Mai Ngân


EM TIN

Màu son tím sen trên đôi môi em
Anh tham lam đã làm phai nhạt mất
Em không trách bởi thời gian chật vật
Nhưng trong em nỗi buồn tủi khôn nguôi...

Lời nói thật - giọt nước mắt đàn ông
Chưa rơi xuống nhưng lòng em đau buốt
Ngoài khung cửa kính buổi trưa trong suốt
Nắng dịu dàng cho mây nhẹ bay qua...

Màu tím sen trên cánh môi thật thà
Còn hờn giận, còn ghen... anh uống cạn...
Đôi chúng ta những con người ngạo mạn
Thà chia xa, thà im lặng đớn đau.

Em tin. Tình yêu này mãi của nhau
Dù góc bể chân trời... em vẫn thế
Em cất giấu đê mê trong xa lạ
Trong lạnh lùng, trong phụ rẫy tình anh

Anh nhìn kia... hoa và lá rất xanh...
Em tin.
Giọt nước mắt chưa rơi xuống là thật
Ta đi mãi trong cuộc đời tất bật
Nghĩ về nhau và luôn nhớ về nhau

Em tin. Người đàn ông vốn tự cao
Khi anh khóc... chắc là điều rất thật!

                               Trần Mai Ngân
                                  13-12-2019

CÁI TỘI KHÔNG CÀI LẠI KHUY ÁO NGỰC - Phạm Đức Nhì


        


TAN VỠ

Mở ngăn kéo rồi anh bỏ ngỏ
Bút viết xong không đậy nắp bao giờ
Ôi anh yêu, lơ đãng đến là
Con nai rừng của em...

Tất cả rồi dễ qua đi, qua đi
Chúng mình sẽ thành vợ thành chồng
Nếu không có một lần...
Một lần như đêm nay

Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá
Anh không cài lại khuy áo ngực cho em

            (Dư Thị Hoàn, tập thơ Lối Nhỏ)

Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2019

VÀI LỜI VỀ MẤY BÀI VIẾT GẦN ĐÂY CỦA ÔNG NGUYÊN LẠC - Đặng Xuân Xuyến


                      
                           Tác giả bài viết Đặng Xuân Xuyến


VÀI LỜI VỀ MẤY BÀI VIẾT GẦN ĐÂY CỦA ÔNG NGUYÊN LẠC
                                                                       Đặng Xuân Xuyến


Chuyện ầm ĩ đầu năm 2019 ông Nguyên Lạc vô cớ gây sự với tôi tưởng đã chìm sâu và mãi mãi tôi sẽ không phải nhìn thấy cái tên Nguyên Lạc (Nguyễn Lạc) như gặp phải đại dịch thì chiều 15 tháng 11.2019, lợi dụng bài "Trao Đổi Với Nhà Thơ Nguyễn Vượng Về Ngôn Ngữ Trong Thi Ca" của nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương đăng trên blog Bâng Khuâng, ông Nguyên Lạc lại tiếp tục lèo lá gây sự với tôi, mà theo chữ của Nhà thơ Phạm Ngọc Thái thì đó là những trò nhố nhăng của "thằng lưu manh láu cá vặt vãnh".

Thứ Năm, 12 tháng 12, 2019

LẠI BÀN VỀ "BÓNG TÀ HUY BAY" - Nguyên Lạc


               
                              Nhà thơ Nguyên Lạc


LẠI BÀN VỀ "BÓNG TÀ HUY BAY"

Tôi xin ghi lại những gì đã viết ở bài trước* có liên hệ đến hai chữ "Tà Huy"

I. Tà huy

Tà huy: The setting sun, sun set, sun đown - Tiếng Anh

1. Kết hợp Tà huy có thể hiểu trên cơ sở ghép nghĩa của các thành tố tạo nên nó:
Tà huy do ghép 2 chữ: Tà và Huy
-Tà : lệch, vẹo, nghiêng, xiên, chéo, dốc
- Huy :Ánh sáng (mặt trời), nắng, ánh nắng
Nghĩa của cả kết hợp Tà huy giống như Tà dương
- Ánh mặt trời chiều ngả về tây -Từ điển trích dẫn
- Ánh nắng nghiêng của buổi chiều.- Từ điển Nguyễn Quốc Hùng

ĐÃNG TRÍ - Thơ Trần Mai Ngân


    
                        Nhà thơ Trần Mai Ngân


ĐÃNG TRÍ

Tháng Mười Hai em gọi là chiêm bao
Tháng Mười Hai em ôm hết ngọt ngào
Của anh, của em và cả Sài Gòn
Của trời cao, của gió lộng mây mưa...

Tháng Mười Hai ôm hết... lòng sao vừa
Để mộng lành say buổi trưa hôm ấy
Trời Sài Gòn bỗng sao mà cao vậy
Cứ xanh lơ cứ vời vợi trên cùng...

Tháng Mười Hai nắng nhạt... trời lạnh lùng
Ai sẽ khóc sẽ cười khi chia cách
Nghe lá và hoa ngồi lê đôi mách
Rằng chúng mình tại sao phải chia tay...

Tháng Mười Hai nhàn nhạt những men cay
Cứ rót mãi vào đời còn đắm đuối
Chuyện sau trước buồn vui xin cất giữ
Đem theo mình về chín suối ngàn sau...

Tháng Mười Hai ơi xin hãy qua mau
Không quên nhớ một tình yêu đãng trí!

                                   Trần Mai Ngân
                                      2-12-2019

MỘT BÀI THƠ VỊNH ẢNH KHÔNG ĐỀ TUYỆT HAY - Châu Thạch


   


KHÔNG ĐỀ 
        
Đi hết núi anh tìm mà chưa gặp
Hoàng hôn tím tiếp tiếp bình minh hồng
Rét mướt mùa đông nắng nung mùa hạ
Anh vẫn chưa tìm được lá diêu bông !

Tới cảnh danh lam anh cầu khẩn Phật
Lại đụng đầu với những sắc không
Mang từ bi anh đi tìm gặp Chúa
Chúa bảo tình con Chúa cũng đau lòng

Anh cứ đi, đi mãi tới đầu sông
Đến tận man thiên nước chảy xuôi dòng
Anh chợt nhận ra một điều rất thật
Tay Em sau lưng dấu lá diêu bông.              

                                        ZuLu DC

TẶNG EM CHIẾC LÁ VÀNG - Thơ Quách Như Nguyệt, nhạc và hòa âm: Nguyễn Thanh Hùng


       
                      Nhà thơ Quách Như Nguyệt


TẶNG EM CHIẾC LÁ VÀNG

Chiếc lá nào tôi muốn tặng riêng em   
Chiếc lá mùa thu, chiếc lá vàng                          
Tôi đem ép vào thơ mùa thu trước                     
Mùa thu này mang đến tặng, trao em                

Chiếc lá đơn sơ cầm trong tay                            
Chiếc lá dường như có mây bay                         
Bỡ ngỡ, bồi hồi em cảm động                           
Quà nghèo, em có ngạc nhiên không?             

Chiếc lá vàng mang đến tặng em cưng                       
Chiếc lá thu mưa, thương mấy cho vừa             
Chiếc lá khô còn thơm mùi hoa sữa                    
Ướp tình tôi còn ngơ ngác ươm mơ         

Tặng lá vàng xin đổi chút tình dư
Yêu anh nha, xin hãy đừng do dự
Đừng chần chờ, đừng ngại ngần, tư lự
Hãy yêu anh, xin em chớ ưu tư

Nhẹ nhàng thôi một chút tình thật nhẹ
Như lá vàng bay, thoảng lay trong gió
Nhẹ nhàng thôi tình tưởng không mà có
Nhẹ nhàng thôi, nếu không yêu thì thương

Nhẹ nhàng thôi… tình như mây, như sương
Nhẹ nhàng thôi… tình thật đẹp chẳng ngờ!

                                    Quách Như Nguyệt


       

Nhạc và hòa âm: Nguyễn Thanh Hùng
Ca sĩ: Nguyễn Anh Tuấn
Thơ: Quách Như Nguyệt

Thứ Ba, 10 tháng 12, 2019

TẢN MẠN TÂM SỰ QUA THEO DÕI MỘT CUỘC TRANH LUẬN - Lê Nghị


             
                            Tác giả Lê Nghị


TẢN MẠN TÂM SỰ QUA THEO DÕI MỘT CUỘC TRANH LUẬN
                                                                                      Lê Nghị

Cuối tuần được đọc các ý kiến thân hữu tranh luận xung quanh hai cụm từ “miên trường”“bóng tà huy bay” thấy vui, mở rộng thêm kiến thức, nghe được thông tin nhiều chiều. Thật ra những bài này cũng tương tự nhiều bài khác, mình đã đọc vài lần, nhưng không bình luận. Lý do không phải sợ mất lòng một phía mà sợ bị ném đá từ cả hai phía. Hi,hi. Nhưng đã trình bày thì thật lòng, hiểu sao nói vậy, quý ACE thông cảm.

TRUYỆN NGẮN “CÂY TÁO ÔNG LÀNH” - Hoàng Cát

Có nhiều người nghe câu chuyện về “Cây táo ông Lành” của Hoàng Cát nhưng chưa đọc được nguyên văn… Xin post lại truyện ngắn này với lời kết án của Tạp chí Cộng sản vào thời gian tác phẩm ra đời. Có lời bình ngắn gọn của Nguyễn Trọng Tạo sau này…


             
                 Nhà thơ Hoàng Cát (bên trái) cùng nhà thơ Xuân Diệu.

Thứ Hai, 9 tháng 12, 2019

ALEXANDRE DE RHODES VÀ SỰ TƯỞNG TƯỢNG VỀ LỊCH SỬ CẬN ĐẠI CỦA NỀN SỬ HỌC VIỆT NAM - Khôi Nguyễn

Nguồn:
https://usvietnam.uoregon.edu/vi/2019/11/27/alexandre-de-rhodes-va-su-tuong-tuong-ve-lich-su-can-dai-cua-nen-su-hoc-viet-nam/?fbclid=IwAR0FFflok2L4KV0VHhyeOPGCeRDdWh1xRklsnPm2Z6LmzdKGIE2Oe_VUHj4

               
                         Alexandre de Rhodes Ảnh: Internet


ALEXANDRE DE RHODES VÀ SỰ TƯỞNG TƯỢNG VỀ LỊCH SỬ CẬN ĐẠI CỦA NỀN SỬ HỌC VIỆT NAM

                                                                  Tác giả: Khôi Nguyễn 
                                                              (Đại học Oregon, Hoa Kỳ)

Gần đây, thành phố Đà Nẵng muốn lấy tên Alexandre de Rhodes để đặt tên đường phố. Một số trí thức, trong đó có nhiều người giảng dạy lịch sử trong môi trường đại học, viết thư phản đối, cho rằng Alexandre de Rhodes là một nhà truyền giáo mang tư tưởng thực dân, là kẻ có tội với Việt Nam. Lá thư của họ khiến cho thành phố Đà Nẵng rút lại ý định.
Tuy vậy, những người phản đối ấy hoàn toàn dựa theo những niềm tin có tính tưởng tượng về Alexandre de Rhodes nói riêng và hình ảnh “Tây phương” nói chung, được kiến tạo từ trước 1975 ở miền Bắc.
Bài viết này nhắc lại một cách ngắn gọn những tưởng tượng về lịch sử ấy để gợi mở cho chúng ta suy nghĩ về sử học, giáo dục và chính trị đương đại.

CHÚNG TA MẤT HẾT CHỈ CÒN NHAU, VỊNH TRANH GÀ LỢN - Thơ Vũ Hoàng Chương


   

Theo ông Hoàng Tấn, nhà thơ Vũ Hoàng Chương làm bài thơ “Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau” tặng nghệ nhân Quách Thị Hồ, người hát ca trù hay nhất Việtnam (danh hiệu NSND), xưa từng là bạn cố tri của nhà thơ Vũ Hoàng Chương.
Hát ca trù cần có “đàn đáy”, do đó nội dung bài thơ sau đây đầy ắp những từ hát cô đầu, âm thanh vang tiếng “sênh, đàn, phách”.


    


CHÚNG TA MẤT HẾT CHỈ CÒN NHAU

Sáng chưa sáng hẳn tối chưa đành
Gà lợn om sòm cả bức tranh
Rằng vách có tai thơ có họa
Biết lòng ai đỏ mắt ai xanh

Dấu hỏi xoay quanh trọn kiếp người
Sên bò nát óc máu thắm rơi
Chiều nay một dấu than buông dứt
Đanh đóng vào săng tiếng trả lời

Chúng ta mất hết cả rồi sao ?
Cả đến âm thanh một thuở nào !
Da trống tơ đàn ôi trúc phách
Đều khổ như khúc hát gầy hao

Đàn mang tiếng đáy mà không đáy
Mất hết rồi sao sợi nhớ thương
Tay phách từ lâu nay lạc phách
Không còn đựng mãi bến Tầm Dương.

Hơi ca nóng đã tan thành tuyết
Để tiếp vào cho nó đỡ xanh
Bạc mệnh hỡi ai hoàn mệnh bạc
Đâu còn ấm nữa rượu tàn canh ?

Hay là đêm ấy Ngưu lìa Chúc
Xé nát mình ra hoen mắt ai?
Còn có gì đâu cho mắt trống
Đập lên hoang vắng đến ghê người !

Âm thanh mất hết còn chi đâu ?
Gắng gượng cho thêm hồn nhọc đau
Ba kiếp long đong ngồi chụm lại
Chúng ta mất hết chỉ còn nhau.

                          Vũ Hoàng Chương

TIẾNG NÓI VÀ CHỮ VIẾT CỦA VIỆT NAM - Hoàng Đằng


                
                                    Tác giả Hoàng Đằng


          TIẾNG NÓI VÀ CHỮ VIẾT CỦA VIỆT NAM
                                    (Ngôn ngữ và văn tự)
                                                                               Hoàng Đằng

Thời gian này, có ý kiến trái chiều về việc lấy tên giáo sĩ Francisco De Pina và giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre De Rhodes) đặt tên cho hai con đường nào đó tại Đà Nẵng.
Qua những ý kiến đưa ra, tôi thấy đang có sự lẫn lộn giữa TIẾNG NÓI và CHỮ VIẾT (Ngôn ngữ và văn tự) ngay cả trong giới trí thức.

KHÁM PHÁ HỒ TÂY: NHÀ TRANH, GỐC LIỄU CỦA THẠCH LAM - Nguyễn Ngọc Tiến


                                     Nhà văn Thạch Lam và các tác phẩm tiêu biểu


       KHÁM PHÁ HỒ TÂY: 
       NHÀ TRANH, GỐC LIỄU CỦA THẠCH LAM 
                                                                   Nguyễn Ngọc Tiến

Hồ Tây gắn liền với những văn sĩ tài hoa bậc nhất của thi đàn Việt Nam, từ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, cho đến sau này là Thạch Lam, tác giả của “Hà Nội ba sáu phố phường”. Nhà văn yểu mệnh này có căn nhà soi bóng xuống Hồ Tây, đã đi vào thơ bạn bè mà không hề tô vẽ: Tây Hồ có danh sĩ/ Nhà thì ở nhà tranh/ Cửa trúc cài phên gió/ Trước thềm bóng liễu xanh…”
  

KHÁM PHÁ HỒ TÂY: PHAN KẾ BÍNH VÀ “ĐÊM TRĂNG CHƠI Ở HỒ TÂY” - Nguyễn Ngọc Tiến


                                                         Học giả Phan Kế Bính


KHÁM PHÁ HỒ TÂY: PHAN KẾ BÍNH VÀ “ĐÊM TRĂNG CHƠI Ở HỒ TÂY
                                                                    Nguyễn Ngọc Tiến

Thụy Khuê là làng bên Hồ Tây có truyền thống văn học. Làng có văn chỉ ở cạnh đình Đoài. Về học hành, có ông Nguyễn Đoan (1473 - ?) đỗ tiến sĩ đời vua Lê Hiến Tông (1502). Đến đời Nguyễn, ít người đỗ đạt hơn, chỉ có gia đình cụ Tú nho sinh ra Phan Kế Bính là học hành cao hơn cả. Bài ký Đêm trăng chơi Hồ Tây của ông có thể coi là một áng văn tuyệt bút viết về thắng cảnh lừng danh này của Thăng Long - Hà Nội.

QUỐC HIỆU ĐẠI NGU THỜI NHÀ HỒ MANG Ý NGHĨA GÌ? - Nguyễn Thanh Điệp




Theo Từ điển bách khoa Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt:

Đại Ngu (大虞) là quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ, tồn tại từ năm 1400 đến khi cha con Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương bị bắt năm 1407.
Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu vào tháng 3 năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền. Sau đó vào tháng 4 năm 1407, nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh, và tên Đại Ngu không được dùng làm quốc hiệu từ thời điểm đó. Sau khi nhà Hậu Lê chiến tranh giành lại độc lập, quốc hiệu của Việt Nam đổi lại thành Đại Việt.
Chữ “Ngu” () trong quốc hiệu “Đại Ngu” (大虞) của nhà Hồ có nghĩa là “sự yên vui, hòa bình", không phải chữ "Ngu" () mang nghĩa là "ngu ngốc". “Đại Ngu” có thể hiểu là ước vọng về một sự bình yên rộng lớn trên khắp cõi giang sơn.

Có một thuyết khác cho rằng họ Hồ là con cháu Ngu Thuấn, là một trong Ngũ Đế nổi tiếng ở Trung Hoa thời thượng cổ. Sau này con Ngu Yên là Vĩ Mãn được Chu Vũ Vương của nhà Chu phong cho ở đất Trần, gọi là Hồ công Mãn, sau dùng chữ Hồ làm tên họ.[cần dẫn nguồn] Hồ Quý Ly nhận mình là dòng dõi họ Hồ, con cháu Ngu Thuấn, nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu.


QUỐC HIỆU ĐẠI NGU THỜI NHÀ HỒ MANG Ý NGHĨA GÌ?
                                                                          Nguyễn Thanh Điệp

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Hồ Quý Ly trước có tên Lê Quý Ly, tự là Lý Nguyên, sinh năm Ất Hợi (1335), quê ở tỉnh Thanh Hóa ngày nay. Hồ Quý Ly có 2 cô làm phi tần của Trần Minh Tông, một bà sinh ra Trần Nghệ Tông, một sinh ra Trần Duệ Tông, nhờ đó nên được vua Trần tin dùng.


Theo sách “Việt Nam sử lược”, từ lúc làm vua cho tới khi làm thái thượng hoàng, Trần Nghệ Tông một mực tin dùng Hồ Quý Ly, bất chấp mọi sự can ngăn của hoàng thân quốc thích.


Theo sách “Lịch triều hiến chương loại chí”, sau khi thượng hoàng Trần Nghệ Tông qua đời năm 1394, Hồ Quý Ly ngày càng chuyên quyền. Đến tháng 3/1400, ông phế bỏ cháu ngoại là vua Trần Thiếu Đế tự xưng làm vua.


Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly cho xây dựng kinh đô mới ở Vĩnh Lộc (Thanh Hoá) đổi tên nước thành Đại Ngu và tập trung xây dựng quân đội. Hồ Quý Ly đổi quốc hiệu nước ta từ Đại Việt sang Đại Ngu, với mong muốn xây dựng một quốc gia phồn thịnh. Đại Ngu theo tiếng Hán còn có nghĩa “Sự yên vui, hoà bình”.


Theo “Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục”, Hồ Quý Ly từng cho thống nhất lại chuẩn đo lường để buôn bán; quy định người đỗ thi Hương phải qua kỳ thi Toán pháp mới được thi Hội; lưu thông tiền giấy.


Không được nhân dân ủng hộ, nhà Hồ nhanh chóng thất bại như Hồ Nguyên Trừng đã nói: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”.


Theo sách “Việt Nam sử lược”, nhà Hồ trị vì từ năm 1400-1407, trải qua 2 đời vua gồm Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương. Sau khi kháng chiến thất bại, cha con Hồ Quý Ly bị bắt.

                                                                            Nguyễn Thanh Điệp

Nguồn:
https://news.zing.vn/quoc-hieu-dai-ngu-thoi-nha-ho-mang-y-nghia-gi-post1019016.html