BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 6 tháng 10, 2020

MẪU ĐÀO NƯƠNG: VỊ SƯ TỔ CỦA MÔN HÁT CHÈO - Đặng Xuân Xuyến

 

                                       Lễ hội Đào Nương

Đền Mẫu hay còn gọi là đền Đào Nương, nằm bên đường 39B, thuộc địa phận xã Đào Đặng, tổng Cao Cương, huyện Tiên Lữ, phủ Khoái Châu, nay là làng Đào Đặng, xã Trung Nghĩa, thành phố Hưng Yên.

Thứ Hai, 5 tháng 10, 2020

TẢN MẠN ĐÔI ĐIỀU VỀ TRÀ (Kỳ 5) – Nguyên Lạc

 


LOẠI TRÀ – DANH TRÀ (tt)

III. Các loại trà khác

1. Việt nam

Trước khi nói đến trà Việt, tôi xin nhắc lại sơ lược quan niệm về nguồn gốc trà.

Theo Đỗ Ngọc Quỹ: “Từ tài liệu khảo cứu của Uỷ ban Khoa học Xã hội thì người ta đã tìm thấy dấu tích của lá và cây chè hóa thạch ở đất tổ Hùng Vương (Phú Thọ). Xa hơn nữa, họ còn nghi ngờ cây chè có từ thời kỳ đồ đá Sơn Vi (văn hóa Hòa Bình). Cho đến nay, ở vùng Suối Giàng (Văn Chấn-Nghĩa Lộ-Yên Bái), trên độ cao 1.000 mét so với mặt biển, có một vùng chè hoang khoảng 40.000 cây chè dại, trong đó có một cây chè cổ thụ lớn nhất, ba người ôm không xuể.” (Webside Đặc Trưng). Một chứng cứ tư liệu khác: Thiền Uyển Tập Anh, mục Tăng thống Huệ Sinh (?-1064) có nói đến một địa danh gọi là Núi Trà ở Bắc Ninh, như sau: “Năm 19 tuổi, Sư bỏ đời, cùng Pháp Thông chùa Hạc Lâm thờ Định Huệ chùa Quang Hưng làm thầy. Học thiền mỗi ngày một tiến. Định Huệ vỗ về mến chuộng. Từ đó, Sư dạo khắp tòng lâm, hỏi hết thiền chỉ rồi đến đỉnh Bồ Đề núi Trà trác tích. Mỗi lần vào định, trải qua năm ngày mới dậy. Người bấy giờ gọi Sư là Đại sĩ nhục thân”. Tiến sĩ Lê Mạnh Thát chú thêm: Núi Trà “Tức núi Nguyệt Thường hay núi Bạch Sắc ở huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Bắc Ninh, mục Sơn xuyên nói: “Núi Nguyệt Thường, tại phía tây nam huyện Tiên Du ba dặm, một tên là núi Bạch Sắc, cũng gọi là núi Trà. Tương truyền Lý Thánh Tôn đến chơi núi đó và cho tên Nguyệt Thường. Núi hơi cao, đá đất lẫn lộn. Trên núi có liu, dưới núi có đền Cao Sơn. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) triều ta liệt vào hạng danh sơn, chép vào sách cúng. Núi này hiện có đỉnh Bồ Đề không, chưa thể biết được.” Khả năng núi này là núi có cây trà hoang mọc nhiều là điều không phải không thể tin. Lê Quý Đôn dẫn Trà Kinh của Trung Hoa viết: “Trà là một loại cây quý ở phương Nam, cây như cây qua lô, lá như lá chi tử, hoa như hoa tường vi trắng, quả như quả tinh biền lư, nhị như nhị đinh hương, vị rất hàn” (Vân Đài Loại Ngữ – Phẩm Vật). Vậy cây trà lúc đó người Việt gọi là qua lô, giống như cư dân vùng Vân Nam gọi là đồ (sau người Trung Hoa thêm một vạch ngang và đọc là trà). Sách Trung Hoa cũng thừa nhận cây trà vốn có trong tự nhiên tại Việt Nam, cuốn Nghiêm Bác Tạp Chí, Đào Hoằng Cảnh, người san định lại Thần Nông Bản Thảo, mượn lời Lý Trọng Tân viết: “Trà ở Giao Chỉ như rêu xanh, vị cay gắt gọi là trà đắng”. Như vậy trà là cây bản địa Việt Nam được người Trung Hoa đánh giá cao, nên việc tiến cống trà thời Đinh là điều không phải là khó hiểu”.

PHẠM NGỌC THÁI VỚI BÀI THƠ TƯỢNG TRƯNG ĐIỂN HÌNH – Trần Đức


       


NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG
                       
       Người đàn bà đi trong mưa rơi
       Chứa một trời thầm như hoa vậy...
                               (Tặng Bích Đào)

Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!

Em đi - về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xoã ngang vai mái hất tơi bời

Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai !
Người đàn bà ai mà định nghĩa?

Đường xưa đó về đây, em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa

Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
                                    suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau!

Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...

                 Phạm Ngọc Thái
        (Trích "Tuyển thơ chọn lọc", Nxb Hồng Đức 2019)

Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2020

HOANG CHIỀU – Thơ Đặng Xuân Xuyến

 
        


HOANG CHIỀU

Người quê thì đã xa quê
Chỉ còn cái lạnh dạt về cuối năm
Chuông chùa vọng phía xa xăm
Lá vàng trút vội giữa căm căm chiều.

Làng Đá, chiều 28 tháng 09-2020
ĐẶNG XUÂN XUYẾN

NHÀ THƠ KHA TIỆM LY ĐOẠT GIẢI NHẤT VIẾT VĂN TẾ NGUYỄN DU: VĂN CHƯƠNG RẺ HƠN BÈO - Châu Thạch

 


Hiện nay trên đài Truyền hình Thành Phố Hồ Chí Minh thường chiếu một trò chơi gọi là “Thách Thức Danh Hài”. Trong trò chơi này, thí sinh ra đứng trước mặt danh hài Trấn Thành và Trường Giang, họ chỉ cần làm hề cho một trong hai người nầy cười là được tiền. Cười lần 1 lảnh 2 triệu, cười lần 2 được ngay 10 triệu và nếu chọc cho  họ cười đến lần thứ 5 thì  thí sinh ôm về cho mình trọn 100 triệu. Đã có nhiều thí sinh trong vòng 5 phút, lãnh gọn số tiền lớn ấy. 

NHỚ XƯA - Thơ Nhã My, nhạc Nguyễn Hữu Tân

 
   
                       Nhà thơ Nhã My


NHỚ XƯA

Nhớ xưa em tuổi mười hai
Cỏ non. Áo mỏng. Chân giày điểm sương
Đường xa hai đứa đến trường
Thương như áo nắng còn vương nắng lành
Bây giờ lối cũ buồn tênh
Bây giờ vắng tiếng em anh những ngày
Nhớ xưa tóc xỏa ngang vai
Hương bay theo gió cho ai thẩn thờ
Đêm về dệt mộng làm thơ
Bây giờ lẳng lặng ngẩn ngơ nhớ về
Nhớ xưa dáng nhỏ tóc thề
Hè sang nắng nhẹ vỗ về vai thon
Ai về nhỏ bước chân son
Để ai gối mộng mỏi mòn đợi trông
Bây giờ người đã sang sông
Nhớ xưa như nhớ mùa đông bẽ bàng

                                            Nhã My


       

LÀNG CHÀI - Thơ Trần Mai Ngân


       
                          Nhà thơ Trần Mai Ngân


LÀNG CHÀI

Một mình đi ngang qua làng chài
Dự báo thời tiết bão chiều nay
Thuyền đã về neo đầy bến cũ
Mà chúng mình vẫn cứ lạc nhau...

Giông tố đời giết giấc chiêm bao
Anh một phương xa em một phương
Và cứ thế mất dấu con đường
Về tổ ấm của ngày thu cưới...

Biển chiều nay thét gào sóng dữ
Nhấn chìm tan lời nói yêu đương
Em khản tiếng...biển ơi trả lại
Anh ngày xưa - em cũ ngày xưa...

Làng chài chiều nay ngập gió mưa
Những thuyền neo xếp hàng đứng khóc
Duyên với phận thôi không trách móc
Dẫu thế nào mình cũng lạc nhau... 
                                    
                           Trần Mai Ngân

Thứ Sáu, 2 tháng 10, 2020

ĐÊM RẰM TRĂNG TỎA SÁNG - Thơ Quách Như Nguyệt

  
   


ĐÊM RẰM TRĂNG TỎA SÁNG

Em chào anh buổi tối, em chào anh buổi sáng
Em chào anh buổi chiều, say hello buổi trưa
Em gặp anh sáng sớm, gặp anh khi chiều tàn
Hoa chanh nở rộn ràng, mây trắng, vàng bay ngang          

Em gặp anh ban đêm, từ giã giữa ban ngày
Đến thăm anh phút chốc, hôn nhau rồi chia tay
Đời vốn nhiều gian nan, ta gặp nhau muộn màng
Tình nhiều năm vẫn mới, tình mới nên cuồng say

Đến thăm anh, đêm rằm trăng sáng quá
Ngồi bên nhau, ta cùng ngắm ánh trăng ngà
Tết Trung Thu ta cùng nhấp tách trà
Ăn bánh ngọt, thưởng thức vầng trăng sáng

Hoa quỳnh trắng đang từ từ mở cánh
Thiên đường này đâu dễ có đâu anh
Tình ngọt ngào qua ánh mắt long lanh
Cảm ơn anh và đêm rằm tháng Tám

                 Quách Như Nguyệt
       (Tết Trung Thu 1 tháng 10, 2020)

Thứ Năm, 1 tháng 10, 2020

BẤT NGỜ, TẤU KHÚC - Thơ Lê Phước Sinh


   


BẤT NGỜ 

Em như Bánh Tráng nhúng nước
Mưa ào - "Con Ngựa Bất Kham"
nhờ Gió hong khô phần ngực
cuồng chân, chạy nép bên đường...

NIỀM VUI BUỔI SÁNG - Truyện ngắn Hoàng Hương Trang

       
       

Tôi có thói quen từ thuở nhỏ là phải tìm cách tập thể dục hằng ngày để có sức khỏe. Lúc ấy còn ở Huế, tuổi tiểu học, tôi thích chạy bộ. Lên trung học, tôi thích nhiều bộ môn hơn, nào bơi lội trên sông Hương, bơi từ bến nhà tôi qua bên Cồn hái trộm vài quả bắp, vài trái ớt (gởi lời xin lỗi những vườn cây năm xưa đã từng bị tôi và các bạn hái trộm) rồi bơi về cười đùa ầm ĩ trên sông rất khoái chí. Mặc dù tôi không giỏi bơi lội, phải bơi bằng phao ruột xe hơi cho an toàn. Có khi là chèo thuyền lên tới chùa Thiên Mụ rồi chèo về, mỗi thuyền hai đứa, một đứa chèo đi, một đứa chèo về. Nếu bữa nào có tiền thì ghé khu vườn cạnh chùa Thiên Mụ ăn bánh bèo rồi mới chèo về.

CHÙM THƠ "BỎ..." CỦA LÊ VĂN TRUNG


       


BỎ LẠI ĐỜI QUÊN

(Viếng linh hồn thi sỹ Phạm Ngọc Lư)

Đành bỏ lại dỡ dang trần gian mộng
Anh trở về tắm gội dưới trăng sao
Cõi vi diệu hồn anh bay lồng lộng
Trả lại tình trọn vẹn nghĩa thương đau

Các em hỡi! Những môi ngà mắt ngọc
Vói bàn tay níu gọi cõi vô cùng
Xin hãy thắp nồng nàn dòng lệ biếc
Tiễn anh về vời vợi cõi trời không

Các em hỡi! Những lụa là da thịt
Rướn bàn chân đốt ngọn nến bên trời
Xin tỏa hết sắc hương đời diễm tuyệt
Cho anh về sáng rực cõi rong chơi

Bỏ lại trần gian bỏ tình bỏ bạn
Bỏ ai ngồi bên một góc đời quên
Và tôi nữa, sẽ một lần bỏ lại
Trái tim còn nguyên vẹn ở trong em.

 

Thứ Tư, 30 tháng 9, 2020

CHÙA CHUÔNG, ĐỆ NHẤT DANH LAM PHỐ HIẾN - Đặng Xuân Xuyến

 

                                     Cổng tam quan chùa Chuông

Chùa Chuông có tên chữ là Kim Chung Tự, được xây dựng từ thời Hậu Lê và trùng tu quy mô lớn vào năm 1707, được mệnh danh là "Phố Hiến đệ nhất danh thắng".

ĐỪNG ĐI - Thơ Nhã My, nhạc Nguyễn Hữu Tân


       
                       Nhà thơ Nhã My

ĐỪNG ĐI

1-
Người ơi Xin chớ vội đi
"Trăm năm biết có duyên gì hay không"
Gặp nhau xao xuyến tấc lòng
Xuân hoa hé nụ chiều đông gió lùa
Hè sang thu mới giao mùa
Thời gian một giấc cũng vừa nhớ nhau
Ngoài kia nắng đổ xôn xao
Người không ở lại ngày nào chung đôi?

2-
Người ơi ở lại đừng đi
Nhớ thương đến độ xuân thì héo hon
Xót đêm trở giấc mỏi mòn
Tiếc ngày sao chẳng vội tròn cuộc vui

3-
Đừng đi người hỡi đừng đi
Mưa giăng sợi nhớ nắng ghì sợi thương !
                                               
                                                  Nhã My


     

Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2020

GIẤC THU, RU VẦNG TRĂNG QUÊ – Thơ Tịnh Bình


   


GIẤC THU

Đã vàng lên thưa thớt
Áo mơ phai ngập ngừng
Vờ trêu thu bẽn lẽn
Dăm câu thơ đỏ bừng

Dáng hoa lay đầu ngõ
Cài tóc gió nụ vàng
Người vờ như không thấy
Bướm say tình lang thang

Ngõ vắng tìm lối cũ
Những mùa rêu đã già
Trách thu không giữ nổi
Sương khói mộng ngày qua

Dỗ lá thôi đừng khóc
Gió thì thầm hát ru
Đò hoàng hoa rời bến
Chòng chành mơ giấc thu...

VẦN NGANG CÂU BÁT TRONG TRUYỆN KIỀU - Phạm Đức Nhì


     
                 Nhà bình thơ Phạm Đức Nhì

               
Mở Đầu Bằng Một Bài Thơ Đương Đại

ĐỜI
Đắng cay này gửi vào thơ
Để đêm chia bóng, ngày chờ ước mơ
Tằm ơi! Sao chẳng nhả tơ
Cho ta vá lại hồn thơ nát nhàu!
(Trần Trọng Giá, FB Lục Bát Việt Nam)

Đây là bài thơ mà câu bát của cặp đầu tiên có chữ thứ 6 và chữ thứ 8 ăn vần với nhau (vần ngang câu bát) (chờ mơ). Tôi không nghĩ là tác giả chủ ý tạo cặp vần này. Nó tuôn ra theo dòng chảy của tứ thơ và vì “không phạm luật” nên ngài không để ý. Rồi chữ “chờ” vần với chữ “thơ” ở câu lục trên, chữ “mơ” vần với chữ “tơ” ở câu lục kế tiếp và dính líu, dây nhợ với chữ “thơ” ở câu bát dưới.
Hậu quả là độc giả phải nghe âm điệu của một chuỗi 5 chữ (thơ chờ mơ tơ thơ) từ 4 câu thơ liên tiếp trùng vần – mà lại toàn là chính vận mới đáng sợ. Vần quá ngọt. Có một tô chè mà nêm đến mấy lạng đường, ngọt lợ đến gắt cổ.

Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2020

RIÊNG NGÕ ĐỘC HÀNH ! - Thơ Phạm Ngọc Thoa


   
                        Nhà thơ Phạm Ngọc Thoa


RIÊNG NGÕ ĐỘC HÀNH !

Dợm hỏi người tôi… có ngấm buồn ?
Đèn khuya trời rộng  ạnh yêu đương
Mà trong đôi mắt sầu ngấn lệ
Hay bởi người ta quá lạnh lùng !

Mây trắng chiều nay thoáng qua lòng
Đôi bờ hư thật với thinh không
Xa xăm có thấu tình viễn lý
Niệm khúc từ ly dưới nắng hồng

Cứ trách hờn chi thêm đớn đau
Đêm về tịch mịch lạnh cô lâu
Ngồi đây chấp vá trời thiên lý
Tím nắng hồng hoang nhuộm mái đầu

Đan tâm bẻ nhánh biệt ly sầu
Ngày trôi đi vội biệt ngàn nhau
Cọng buồn chìm nổi soi bờ mộng
khắc vào lòng lá vết thương đau

Đã chẳng là hoa của đại ngàn
Ngậm ngùi phả lấp vết thu ngang
Rồi giấu tuổi chờ trong mắt đợi
Em từ viễn lý khóc thu sang

Gửi nhớ theo cùng ngọn thu phong
Nửa trang ly biệt chết trong lòng
Mà nghe rét mướt từ sông lạnh
Riêng ngõ độc hành anh biết không …?

                              Fountain Valley
                             Phạm Ngọc Thoa

TẢN MẠN ĐÔI ĐIỀU VỀ TRÀ (Kỳ 4) – Nguyên Lạc

 


LOẠI TRÀ – DANH TRÀ

I. Các loại trà

Chúng ta có thể tóm lược rằng có rất nhiều loại trà, nhưng tựu chung có thể dễ dàng phân làm ba loại: Trà xanh, trà đen và loại trung gian, cả ba loại đều chỉ khác nhau ở chặng lên men/ cách ủ (Oxidation) . Ủ sơ thì cho loại trà xanh, ủ kỹ thì là loại trà đen, ủ vừa thì cho loại trà trung gian: như loại Ô Long, trà vàng Thiết Quan Âm… Trà nguyên thủy vẫn là màu lá xanh chỉ trừ giống Lạp Mộc trà mọc ở Phúc Kiến mang màu vàng.  

Thứ Năm, 24 tháng 9, 2020

CHỜ - Thơ Nhã My, nhạc Nguyễn Hữu Tân

 
      
                     Nhà thơ Nhã My


CHỜ

(Nhân đọc lời nhắn gửi xót xa của người tìm cố nhân suốt 43 năm chờ đợi)

Chờ ai mộng đã tàn phai
Nhớ thương, thương nhớ, tình phai vẫn chờ !
Đêm lặng lẽ thức cùng ánh Nguyệt
Nguyệt ơ hờ tròn khuyết mông lung
Người xa chẳng hẹn tương phùng
Biết ai tâm sự vui cùng tháng năm!
Chờ người mãi xa xăm cách trở
Tóc bạc màu cứ ngỡ còn xuân
Đêm thương giấc mộng lưng chừng
Ngày trơ nỗi nhớ ngập ngừng lối xưa
Cuộc tình lỡ nắng mưa mòn mỏi
Tiếng ve sầu hạ trổi dư âm
Đông sang ngọn gió lạnh lòng
Thu vàng lá chết vẫn mong bóng người
Sầu quạnh quẽ nụ cười héo hắt
Mắt lệ tràn tim thắt niềm đau
Hỏi người có hiểu lòng nhau ?
Lời thề vàng đá tình sâu đã chìm? !!
Tháng năm mãi im lìm tin nhạn
Xót cho người chưa cạn niềm tin
Lời thương nhắn gửi chân tình
Thủy chung chi để riêng mình đớn đau !

                                                 Nhã My


        

Thơ: Nhã My.
Nhạc và trình bày: Nguyễn Hữu Tân.

LÊN FACE - Thơ Lê Phước Sinh


   


LÊN FACE

Lòng nhủ lòng
vào kiếm tìm Bạn bè
học hỏi thêm những điều hay
nhổ bớt những gốc Cỏ Dại
rồi cắm nhành Hoa
cho Đời
thanh thoáng...

                     Lê Phước Sinh

HƯƠNG XƯA - Đức Hạnh và quý thi hữu


   


HƯƠNG XƯA

Hương xưa gợi nhớ tình thơ !
Nàng thu phấn khởi kính mời bạn thơ
Khung trời kỷ niệm nên thơ
Thuyền tình cập bến sông mơ tươi hồng…

H ương lòng thắm trổ hỡi người ơi !
Ử ng má nàng Thi đẹp cõi đời
Ở cánh vườn xưa Hằng mãi đợi
N gỏ thơ lối cũ Cuội luôn mời !
G ương còn nở mộng chàng lui tới
X ứ vẫn nghe hồn cảnh lại rơi…
Ư ớc tưởng thuyền thơ nào đã vợi !
À! Bao kỷ niệm…tiếng Thu cười…

                                    Đức Hạnh
                                   16 09 2020


BÀI HỌA:


HƯƠNG XƯA

H át những dòng thơ gửi nụ cười
Ư ơm vần chữ đượm thả chiều ơi
Ơ n ngày đẹp nắng chân tình gởi
N gõ ấm lòng êm tiếng nhỏ mời
G ánh cả mùa xuân hồn mãi đợi
X ua ngàn bất hạnh ngữ nào rơi
Ư ớc mùa hội trẩy mơ người hỡi
Á nh nguyệt bừng lên phủ cõi đời                         

                            Trần Hằng Nga
                              16 09 2020

ĐỀN CỬA ÔNG, NƠI THỰC HÀNH TÍN NGƯỠNG VỀ CÔNG DANH, SỰ NGHIỆP - Đặng Xuân Xuyến

 

Đền Cửa Ông được bố trí trên các ngọn đồi không cao lắm, phía trước hướng ra vịnh Bái Tử Long, sơn thủy hữu tình. Ảnh: Lê Phương.

Đền Cửa Ông là nơi thờ Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, một tướng lĩnh thời Trần đã lập nhiều công lớn trong cuộc chiến chống quân Nguyên xâm lược. Ông là con trai của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành công chúa.

Tương truyền, trước khi thờ tướng Hưng Nhượng vương quân Trần Quốc Tảng, đền Cửa Ông là miếu thờ ông Hoàng Cần, người địa phương có nhiều công đánh phá giặc cướp, được các triều đại phong kiến phong "Khâm sai Đông Đạo Tiết chế".

Thứ Tư, 23 tháng 9, 2020

KỶ NIỆM TAO ĐÀN - Phan Lạc Phúc

Ban “Tao Đàn” ngoài trách nhiệm đã được minh thị “tiếng nói của thơ, văn miền Tự Do” còn tiềm ẩn một nghĩa vụ “đem theo văn hóa của một triệu người miền Bắc vừa định cư ở miền Nam.” Thơ, văn Tao Đàn phần đông là văn hóa Bắc Hà, là những làn điệu của văn minh sông Hồng, sông Mã giao duyên cùng văn minh Hương Giang và Cửu Long...



             KỶ NIỆM TAO ĐÀN                                                                                                                      Phan Lạc Phúc

Đầu năm 1956 tôi từ biệt nghề “chiến binh lội ruộng” về Phòng 5 bộ Tổng tham mưu làm sĩ quan thông tin báo chí. Lúc bấy giờ tôi chưa có vợ con gì, khoác cái ba lô lên lưng là có thể đi cùng trời cuối đất.

PHÍA HOÀNG HÔN - Thơ Tịnh Bình

 
        


PHÍA HOÀNG HÔN

Trăng côi cút lạc mình nơi đất lạ
Ngóng quê xa mùi khói quê nhà
Chiều bảng lảng nghé lạc bầy gọi mẹ
Dòng sông nào tít tắp bãi phù sa

Thèm da diết tiếng gà trưa hiên vắng
Bướm vờn bay dây bầu bí trổ hoa
Hoa khế tím soi mình bên bóng nước
Nụ cười tuổi thơ ẩn hiện nhập nhòa...

Nghe thương quá câu dân ca ai hát
Quê hương ta mưa nắng chỉ hai mùa
Bao vất vả cũng nên mùa khoai sắn
Khói lam thơm ấm áp cả mưa chiều

Mây lạc xứ trôi về đâu hối hả
Nhắn dùm ta nỗi nhớ thương xa
Chiều rét mướt chợt buồn con cúm núm
Phía hoàng hôn khản giọng gọi quê nhà...

                                               Tịnh Bình
                                              (Tây Ninh)

NHỚ QUÊ - Thơ Nhã My, nhạc và trình bày Phan Ni Tấn.


        
                          Nhà thơ Nhã My


NHỚ QUÊ

Tháng ba hoa đào rơi rơi từng cánh mỏng
Trải ven đường trên thảm cỏ rợp một màu hồng non
Em lại đi trong nỗi nhớ bồn chồn
Về một chốn đồng quê có hoa cau hoa bưởi
Có luống rau xanh mà mẹ vừa mới tưới
Có trái non trái chín trĩu trên cành
Em vẫn nhớ về một ký ức xanh
Với ruộng lúa rì rào gió đưa lượn sóng trong trời chiều ngập nắng
Ngan ngát hương quê bông súng nở trong đầm
Nơi ấy em vẫn hướng về dù rất đổi xa xăm
Giờ đã xa mất rồi cái tuổi mười lăm
Vẫn ao ước nắm tay ai cùng về trong những chiều tan học
Chia nhau từng nụ cười hồn nhiên
Hoặc trách móc giận hờn nhau trong nhửng ngày chờ đợi
Nghe tiếng bìm bịp kêu mà lòng phơi phới
Biết nước lớn về người sẽ qua thăm
Con sông quê với bao kỷ niệm ngập lòng
Với bên lỡ bên bồi như tình yêu san sẻ
Ngày nhớ thương người mà đêm vẫn thích nằm trong vòng tay của mẹ
Ơi ngọt ngào nghe những tiếng ru êm

Bây giờ tóc mẹ đã hết xanh
Cả người xưa cũng xa rồi không còn gặp lại
Có phải chăng hồn em đang đợi
Xa lắc chiều thương quá chân quê...

                                                                                      Nhã My


        

Thơ: Nhã My.
Nhạc và trình bày: Phan Ni Tấn.