"KẺ
Ở " là môt bài thơ độc đáo được giới yêu thơ ở miền Nam trước 1975 chép
tay và chuyền nhau đọc. Đặc biệt "KẺ Ở" được thi sĩ BÙI GIÁNG viết lời
bình và nhạc sĩ CUNG TIẾN phổ nhạc. Do hoàn cảnh chiến tranh, thiếu tư liệu văn
học để tham khảo nên thi sĩ BÙI GIÁNG và nhạc sĩ CUNG TIẾN cũng như rất nhiều
người cho rằng tác giả bài thơ "KẺ Ở" là QUANG DŨNG. Thực ra, bài thơ
đó chính là bài "DẶM VỀ" của nhà thơ NGUYỄN ĐÌNH TIÊN. Dù có chút nhầm
lẫn về tác giả bài thơ, nhưng thi sĩ BÙI GIÁNG đã rất tài hoa khi bình thơ - Một
cách bình thơ đặc dị "rất Bùi Giáng". Xin mời đọc !
Thi sĩ Bùi Giáng
Thi sĩ Bùi Giáng
BÙI GIÁNG BÌNH THƠ : "KẺ Ở"
Mai
chị về em gửi gì không
Mai
chị về nhớ má em hồng
Chỉ hai
câu đầu đã khiến người tê lạnh. Không có gì cả, không lời nào tha thiết, nhưng
đúng như ông Huy Trân nói: “Thơ Quang Dũng ý đã nhiệt thành, cao đẹp, mà lời
thơ lại êm ái gợi cảm vô cùng. Nói về thơ nhẹ nhàng, êm dịu, mà đọc tới đâu
lâng lâng chết cả lòng đến đấy, thì thi ca hiện đại chỉ có Quang Dũng.”
Thi ca hiện
đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi ca thế giới – vâng – cũng chỉ
riêng một Quang Dũng thôi.
Mai
chị về em gửi gì không
Mai
chị về nhớ má em hồng
Đường
đi không gió lòng sao lạnh
Bụi
vướng ngang đầu mong nhớ mong
Đó là chỗ
sơn cùng thủy tận của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thần tiên hiển hiện tinh thể một cách
không thấy hình hài máu me đâu cả. Người ta đã bao đời đi tìm cõi huyền nhiệm của
ngôn ngữ thơ. Mỗi phen trở về, mỗi phen như bó tay lắc đầu, tuyệt nhiên không
biết ăn nói ra sao cả. Đành chỉ nói quanh co. Và biết bao thy sỹ hoằng viễn đã
nghĩ rằng, nguyệt rằng, mình sẽ suốt đời không làm một vần thơ nào cả - một
phen để hội cái chỗ dị thường trống trải vắng vẻ trong lời man mác thiên tiên
kia.
Lại có những
nhà tư tưởng như Heidegger, viết bao pho sách lịch kịch nêu bao câu chất vấn u ẩn,
đáo cùng vẫn chỉ nhằm mục đích nhiếp dẫn tư tưởng tới chỗ mép bờ bất khả tư nghị
của thi ca.
Nerval
sau những lần thành tựu cõi miền ngôn ngữ đó, ông bèn lao mình vào cõi ẩn mật
vô ngần của một nguồn siêu thực không tiếng không lời Les Chimères.
Apollineire, sau phút dị thường bước lên tột đỉnh đạm
nhiên kia, lập thời nhảy lùi làm thơ theo thể thái bông lông tầm phào, bất sá
lam hồng tố bạch.
Mai
chị về em gửi gì không?
Câu hỏi cũng lững lờ như
lời đáp cũng lửng lơ. Hỏi mà cũng không hỏi, không nói, không ngó, không nhìn
nhau …Và chỉ sau khi lên ngựa, chia bào, con người mới để lòng mình bay tỏa khắp
đường đi.
Đường
đi không gió lòng sao lạnh
Bụi
vướng ngang đầu mong nhớ mong
Tâm sự của
người đi, nhưng nhan đề là kẻ ở. Kẻ ở hay người đi cũng một tâm tình ly biệt.
Đi giữa không gian, thì cũng như đứng ở trên dâu biển. Lòng sao lạnh? Vì lòng
mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh
không gian… Và tiếng “mong nhớ mong” kia cũng chỉ vọng vào được trong không
gian xa hút mà thôi.
Nghĩa là
vọng trở lại vào lòng mình. Từ lòng mình toả vào lòng vũ trụ. Lại từ lòng vũ trụ
dội lại lòng mình. Đó là cái vòng kỳ ảo của mong nhớ mong. Và mong nhớ mong
mênh mông như thế, thì mong nhớ mong là cõi của từ bi tế độ vậy.
Quê
chị về xa tít dặm xa
Vì đó là một
quê hương nào riêng biệt nằm tại một bến bờ bỉ ngạn nào vô tức vô thanh, vô
biên vô tế.
Quê
chị về xa tít dặm xa
Rừng
thu chiều xao xác canh gà
Hoa
rơi khắp lối sương muôn ngả
Ngựa
lạc cành hoang qua lướt qua
Ngựa lạc? Dẫu ngựa không lạc đường vẫn cứ là lạc nẻo.
Nghĩa là: ở trong cõi hư không bao la như thế, thì đâu cũng là lênh đênh, nhưng
lênh đênh theo nghĩa vô ngần: trụ vô sở trụ.
Người ngồi trên ngựa cũng lạc ngựa luôn. Hươu trong rừng
cùng một cảnh ngộ lạc loài như nhau, lại tam trùng lạc lõng nhau, vì bất ngờ sợ
hãi nhau, quay đầu bỏ chạy. Lời thơ lại thêm một chút niêm hoa vi tiếu “theo
ngó theo”.
Ngựa
chị dừng bên thác trong veo
Nếu thác
đục lầy cho một chút, ắt có phần gần gũi bụi hồng hơn. Nhưng tại sao thác lại
trong veo cắc cớ ra như thế? Thì trần gian còn biết đem tâm sự hồng trần ký
thác vào đâu? Đó là chỗ đạm nhiên huyền bí lô hỏa thuần thanh vậy. Nó đốt cháy
linh hồn bằng một tiếng trong veo. Nhưng đốt cháy mà đâu có bỏng da bỏng thịt.
Nó cháy để thăng hoa cho linh hồn về ba la mật, sau một phút linh hồn tạm dừng
trong một phen tư lự. Vì dù sao trận giũ áo cũng còn vướng víu với nhân nghĩa
nhân tình.
Ngựa
chị dừng bên thác trong veo
Lòng
chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi
đây lá giạt vương chân ngựa
Hươu
chạy quay đầu theo ngó theo
Rồi sẽ xin khóc một cơn vô ngần cho trùng sinh trong
vĩnh biệt:
Rừng
đêm nhòa bóng nhớ hoang mang
Ngựa
chị dừng bên thác sao vàng
Sao
rơi đáy nước vương chưn ngựa
Buồn
dâng đôi mi hàng lại hàng
Ta lại
gián tiếp với một sự tình kỳ dị. Nói ra là buồn dưng đôi mi hàng lại hàng,
nhưng có bao giờ mối sâu mênh mông và hầu như vô đối tượng lại tràn ra thành
hàng lệ. Nhưng đây là hàng lệ riêng biệt của hư không đi về vui chơi êm đềm với
không hư thái thiên nhiên tĩnh tịch. Người ta có thể khóc, nhưng không phải
khóc vì một mối đoạn trường riêng tây trong một cảnh ngộ nhất định.
Hoặc đâu
có phải bạ đâu khóc đó như bọn thy sỹ trung niên. Người ta khóc từ chín kiếp
khóc về; như trận mưa vốn từ thiên thu rớt hột. Vì thế nên gọi là hàng lại
hàng. Vì thế nên có chuyện sao rơi đáy nước. Vì thế nên có chuyện sao vương
chưn ngựa. Chưn ngựa ở đây cũng mang đủ trùng quan thời gian vũ trụ nên mới có
thể chạm vào bóng sao rơi từ thời gian tinh thể rớt về. Người và ngựa và sao và
nước bỗng nhiên như nhiên đã đi vào cõi chung vạn vật nhất thể. Thì từ đó trở lại
với đoạn đầu, từ câu hỏi mông lung tới lời đáp nhẹ nhõm, niềm mong nhớ mong là
một tặng vật không lời, không nhất định là riêng biệt của riêng ai trao gửi lại
cho ai. Người chị và người em kia cũng không có tên tuổi nào được hạn định nơi
đâu. Đó là hai đứa con của trời và đất đẻ ra trong một mùa xuân hôn phối. Thì
mai chị về em gửi gì không, là gửi cho chị hay cho ai? làm sao ta dám quyết định?
Chỉ biết rằng: chị hãy nhớ má em hồng. Nghĩa là: mùa xuân xanh còn tồn lưu mãi
mãi trong mùa thu ly biệt. Đó là tặng vật của em trời trao chị đất – nhớ má em
hồng là ký ức kỳ ảo Mnémesyne.
Chẳng hiểu
sao đọc thơ Quang Dũng, Nguyễn Du, Hồ Dzếnh, Huy Cận, tôi thường nghĩ tới người
Chiêm Thành. Tội lỗi ông cha chúng ta đối với dân tộc ấy kể cũng được chuộc phần
nào, cũng như ngày xưa Homère đã giải oan cho người Troyens bị đắm chìm bởi người
Hy Lạp.
Mấy bài
thơ của Quang Dũng như giữ lại cho mọi người một niềm tương ứng mênh mông trong
thời đại ngỗn ngang oan nghiệt, thế giới cùng xô ùa nhau vào hủy diệt, tàn phá,
trong những trận tẩu hỏa nhập ma. Chiến tranh trong thời Quang Dũng dù sao cũng
còn để lại cho người một dư địa để hoài niệm nhớ thương nhau. Nhưng dần dà,
chút tình thương còn sót cũng mất đi giữa hỗn độn. Lúc bấy giờ e chỉ còn cửa quỷ
đối thoại với nhà ma. Quang Dũng cũng linh cảm sự đó, nên bài “Đôi Mắt Người
Sơn Tây” khép lại với mấy tiếng “bao giờ, bao giờ” ngậm ngùi khôn tả:
Bao
giờ trở lại đồng Bương Cấn?
Về
núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông
Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo
diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao
giờ ta gặp em lần nữa
Ngày
ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã
hết sắc màu chinh chiến cũ
Còn
có bao giờ em nhớ ta
Khoảng trống
lại trở về ngập khắp mép bờ ngôn ngữ. Như muốn đánh chìm hết mọi lời thân thiết
đã thốt ra. Chúng ta không còn biết phải giải thích thơ Quang Dũng ra sao được
nữa cả.
Ngày
ấy thanh bình chắc nở hoa
Nhưng có lẽ ông
không tin ở ngày ấy, ông không nghĩ rằng ngày nở hoa ấy sẽ về. Còn có bao giờ
em nhớ ta? Nghĩa là không còn có bao giờ nữa cả? Chúng ta sẽ tiếp tục chết hết.
Người ta sẽ tiếp tục giết nhau cho tới buổi chung cục thời gian. Cuộc chiến
tranh ngày nay không còn chút gì giống như chiến tranh những thời đại trước. Có
những cuộc chiến tranh huy hoàng như một trận mưa rào rực rỡ, làm hồi sinh con
người trong tâm thức từ bi. Nhưng có những cuộc chiến tranh vốn từ trong tinh
thể là làm tan rã tiêu diệt mất bản tính con người. Ngay cả con ngợm, con đười
ươi cũng không còn sống sót một mống nào hết cả. Thì như thế? Còn có bao giờ em
nhớ ta?
Người
ta nhầm lẫn một cách kỳ quặc cái ý nghĩa sơ thủy của chiến tranh. Cuộc chiến
tranh bao dong của những ông Nguyễn Huệ, chiến tranh bác ái của những ông
Napoléon, chiến tranh đó không còn tự nhận diện ra mình nữa trong cuộc chiến
tranh tàn phá ngày nay. Tolstoi ngày xưa chẳng hiểu gì về Napoléon hết cả, cũng
như chúng ta ngày nay chẳng hiều gì cả về cuộc chiến tranh của chúng ta. Thật
là cắc cớ. Còn có một chân lý dị thường ẩn tàng trong Dịch Kinh của Khổng Tử
đang khiến mọi người tư tưởng ngậm ngùi không còn biết phải thốt bất cứ một lời
gi trong hiện trạng năm châu. Bài thơ Quang Dũng hiện ra tại chỗ chênh vênh bát
ngát và thê thảm nhất trong sử lịch con người. Nó chỉ đạm nhiên và thống thiết
khơi rộng những khoảng trống vắng ra để cho mọi vấn đề được nhận định và tự tìm
lời giải đáp.
Bàn luẩn
quẩn mãi là vô lối. Chỉ nên thong dong đọc thơ như uống nước mía, như dõi theo
cánh chuồn chuồn, như nằm ngủ gọi em Thúy Kiều em Thúy Vân em Đạm Tiên, em Hoạn
Thư em Bạc Hạnh, em Sở Khanh, em Mã Giám Sinh, mọi mọi em em của em Tố Như Tử
em Liệp Hộ em Thanh Hiên, em Hiền em Thánh, em Cành em Nhánh, em Trái Ớt, em Muối
Tiêu, em Soài Riêng sa rụng, em Bương Cấn em Sài Sơn…
Bao
giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về
núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông
Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo
diều khuya khoắc thổi đêm trăng.
Bao
giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về
núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông
Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo
diều khuya khoắc thổi đêm trăng.
Tuy nhiên riêng đối với học
sinh đang tập đi thi để cuối năm cưới vợ thì chớ nên lẩn thẩn chiêm bao đọc thơ
nhiều quá.
BÙI
GIÁNG
.....................
GHI CHÚ:
.....................
GHI CHÚ:
Tiểu
sử:
Tên thật: Nguyễn Đình
Tiên
Sinh năm: 1924
Năm mất: 1995
Nơi sinh: Thanh Hoá
Bút danh: Nguyễn Đình
Tiên
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
DẶM VỀ
Giải thưởng văn chương
Giới thiệu một tác phẩm:
DẶM VỀ
Mai
chị về, em gửi gì không
Mai
chị về nhớ má em hồng
Đường
đi không gió, lòng sao lạnh?
Bụi
vượt ngang đầu mong nhớ mong.
Quê
chị về xa tít dặm xa
Rừng
thu chiều xao xác canh gà
Sương
buông khắp lối đường muôn nẻo
Ngựa
lạc cành hoang qua lướt qua.
Ngựa
chị dừng bên thác trong veo
Lòng
chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi
đây, lá rạt vương chân ngựa
Hươu
chạy theo đàn, theo ngó theo.
Rừng
đêm nhoà bóng nhớ hoang mang
Ngựa
chị vừa qua thác sao vàng
Sao
trôi đáy nước, rơi chân ngự
Buồn
dựng đôi mi, ngàn lại ngàn.
NGUYỄN ĐÌNH TIÊN
(Thu 1945
Nơi xuất bản: NXB Lao động - 2001)
Nguồn:
http://maxreading.com/sach-hay/cac-nha-tho-viet-nam-the-ky-20/nguyen-dinh-tien-7447.html