BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 17 tháng 5, 2022

CHÙM THƠ THÁNG 4 & 5 CỦA ĐỖ TRẦM TƯ


  
             Tác giả Đỗ Trầm Tư

 
NỖI NHỚ BLAO
 
Chập chùng
nỗi nhớ Blao.
Nửa đời
gặp lại
ngày nào
bên nhau.
Dã Quỳ
vẫn đứng
đồi cao.
Lunglinh
giọt nắng
nghiêng chao
tự tình.
 

Thứ Hai, 16 tháng 5, 2022

ĐỖ TƯ NGHĨA, MỘT NGƯỜI NHƯ MỌI NGƯỜI - Nguyễn Nam Giao

Để tưởng nhớ anh Đỗ Tư Nghĩa - Nhà giáo - Nhà thơ - Dịch giả (cựu học sinh Nguyễn Hoàng khoá 1960 - 1967) xin mời đọc lại bài viết của người bạn thân của anh, Nguyễn Nam Giao (Nguyễn Văn Cam) cũng vừa từ giã trần gian.
 
Nhà giáo-Nhà thơ-Dịch giả Đỗ Tư Nghĩa

Nhìn bề ngoài, anh Đỗ Tư Nghĩa không khác chi người bình thường, một người như mọi người. Với chiều cao trung bình, dáng người gầy ốm, mái tóc ngắn, ăn mặc bình dị, rất ít nói và tính tình hiền lành; có khi anh chìm khuất trong đám đông…
Nhưng nếu quen biết và gần gũi anh lâu, mới biết Đỗ Tư Nghĩa là một con người lạ lùng, nếu không nói là một người có nhân cách đặc biệt.
 

Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2022

TRẢ EM, XEM BÓI – Thơ Đặng Xuân Xuyến


   


TRẢ EM
 
Đứng trước em anh thành người rất lạ
Thả rông hồn đắm đuối mắt em
Em rất gần
Nhưng cũng thật xa xăm
Em hời hợt để anh thèm vị biển
Em hoang sơ để anh khát đại ngàn.
 
Anh ngợp mình trong ảo vọng ái ân
Mải lặn ngụp xây lâu đài trên cát
Giấu niềm riêng em thản nhiên bỡn cợt
Kéo mùa đông giá lạnh nhích gần
Anh đốt mình cháy bỏng si mê
Thổn thức mãi miền yêu không thể.
 
Anh biết thế
Và anh không thế
Sánh vai em dạo bước song hành
Gió đại ngàn khắc khoải rừng xanh
Sao phải lén mơ nơi xa lắm
Trả lại em niềm đau đằm thắm
Trả đêm hoang vật vã rã rời
Câu thơ tình viết vội gãy đôi
Nhịp yêu ấy anh đành lỡ dở
Chân nhẹ bước. Tim yêu bỏ ngỏ
Khép nụ cười héo hắt nửa đời trai.
 
Hà Nội, ngày 23 tháng 10-2013
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
 

XÓT XA SỐ PHẬN NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG BÀI THƠ “THÍM HAI VUI” CỦA TRẦN NHUẬN MINH - Nguyễn Anh Nông


   
                        Nhà thơ Trần Nhuận Minh
 

THÍM HAI VUI
 
Những năm chú ra trận
Thím buồn vui một mình
Thím bảo những năm ấy
Là những năm hoà bình.
 
Có tin đồn chú mất
Thím thầm cắn chặt môi
Nuôi hai con ăn học
Cấy cày đến quắt người.
 
Bỗng đột nhiên chú về
Tung huân chương đầy chiếu
Thím cười mà như mếu
Nước mắt chẳng buồn lau.
 
Thế rồi... biết vì đâu
Yên lành không chịu được
Vợ con, chú đánh trước
Xóm giềng chú đánh sau.
 
Chớ dại mà can chú
Chú nhất cả huyện rồi
Giặc nào chú cũng thắng
Có thua, thua ông trời!
 
Chỉ thương thím Hai Vui
Mặt mũi luôn thâm tím
Đến bây giờ chiến tranh
Mới đến thật với thím.
 
Chú đòi phải li dị
Mỗi con về một nơi
Thím hát như kẻ dại
Miệng mếu lại thành cười.
 
Nghe đâu thím lên tỉnh
Rửa bát cho người ta
Thấy ai quen cũng lánh
Những mặt phấn quần hoa...
 
            Trần Nhuận Minh    
            Bồ Hòn, 10-1988 

 
Nhà thơ Nguyễn Anh Nông


XÓT XA SỐ PHẬN NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG BÀI THƠ “THÍM HAI VUI” CỦA TRẦN NHUẬN MINH 
                                                                             Nguyễn Anh Nông
    
Đọc xong bài thơ này của Trần Nhuận Minh ta thấy sao mà xót xa buồn, xót xa thương cho số phận người đàn bà- người vợ có cái tên là Thím Hai Vui - nỗi buồn của thời hậu chiến?
Ba bốn nỗi buồn cùng lúc thấm vào tâm can ta, nó làm trái tim ta nhức nhối, lương tri ta cắn dứt? Ngỡ như chính mình cũng can dự vào nỗi bất hạnh kia của vợ chồng người lính? Vì sao đến nông nỗi này?
 

Thứ Sáu, 13 tháng 5, 2022

NỮ VĂN SĨ LỪNG DANH NGƯỜI PHÁP GỐC VIỆT RA ĐI Ở TUỔI 58 - Y Nguyên


Nữ văn sĩ Linda Lê
(Ảnh: Télérama)
 

Báo chí Pháp đã đồng loạt đưa tin buồn về sự kiện này, chẳng hạn tờ Le Figaro đưa lên trang trọng, với lời mô tả ngậm ngùi “người mãi mãi lưu đày” (éternelle exilée).
 
Nhà văn Linda Lê bước vào lĩnh vực văn học với cuốn Bài ca tội ác (Les Évangiles du crime), xuất bản năm 1992. Với những tác phẩm gây tiếng vang của mình, tác giả người Pháp gốc Việt đã nhận giải thưởng Hoàng tử Pierre của Monaco năm 2009, cùng nhiều giải thưởng văn chương danh giá khác.
 

Thứ Năm, 12 tháng 5, 2022

DÂNG HOA KÍNH MẸ - Đức Hạnh cùng thi hữu


   

 
DÂNG HOA KÍNH MẸ
[Stlb]
 
Tháng Năm nở ngàn hoa dâng Mẹ
Tiếng thánh ca trong trẻo ngân vang
Kính Mừng Trinh Nữ Thiên Đàng
Hoa hồng Màu Nhiệm Mẹ ban thế trần
 
Hoa lòng thắm nở tình bát ngát
Hoa Mân Côi ngào ngạt hương tình
Hoa Trinh Nữ rất hiển linh
Hoa hồng Đức Mẹ thắm tình nhân gian
 
Đường rước kiệu muôn lòng nảy nở
Mẹ nhân lành muôn thuở kính yêu
Chuỗi Mân Côi tỏ bao điều
Tình yêu Thánh Nữ sớm chiều chở che
 
Say danh vọng đời con buông thả
Trọng tiền tài vấp ngã bao lần
Dòng sông Thánh Nữ trắng ngần
Cho con thanh tẩy canh tân tâm hồn
 
Về bên Mẹ lòng con thỏa nguyện
Trải tâm hồn hướng thiện bình an
Qua cơn nguy biến trần gian
Mẹ thương dìu dắt dẫn đàng con đi
 
Hoa màu nhiệm xua tan bóng tối
Khuyên đàn con sám hối ăn năn
Năm xưa Mẹ đã nhủ rằng:
Hãy siêng Lần Hạt ngợi khen Chúa Trời
 
“Kinh Rất Thánh Mân Côi” cứu nạn
Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng soi đàng
Chúng con tiến bước vững vàng
Đi trên Đường Chúa muôn vàn thương yêu.
 
Giữ Thập Giới [1] - hòa bình thế giới
Sống yêu thương đổi mới tâm hồn
Thờ vật chất chẳng trường tồn
Xuôi tay nhắm mắt hỏi còn hay không!
 
Tội hay phúc, theo ta mãi mãi
Hãy ăn năn hoán cải tâm mình
Yêu người kính Chúa thực tình
Chiến tranh chấm dứt hòa bình yên vui...
 
Hoa hồng thắm kính dâng Đức Mẹ
Hoa Hồng ân đẹp đẽ Thiên nhan
Hoa màu nhiệm suối Phúc ân
Hoa Mân Côi nguyện kính dâng Đức Bà.
 
                                               Đức Hạnh
                                                   5/2022
 
[1] (Mười Điều Răn giải thoát ta khỏi nô lệ tội lỗi, cho ta con đường sống, cho ta được sống đời đời (Mt 19,16-19)
 

THƠ TRẦN MAI NGÂN, GIẤC THỤY DU GIỮA ĐỜI - Châu Thạch



                    
 (PHẦN I)
    
Chỉ cần mở trang đầu tiên của tập thơ “Khúc Thụy Du” của Trần Mai Ngân, ta gặp ngay lời đề bạt, thì ta có cảm tưởng mình bước vào trong giấc thụy du rồi. Người viết xin trích lượt một vài câu thôi:
 
Trong đêm tĩnh mịch, trong đêm u hoài tôi luôn thầm gọi yêu dấu”. “Trong đêm như thế tôi làm thơ”. “Mai nầy một sớm Thu hay Đông tôi sẽ thành tro bụi”. “Hãy nhớ đến cuộc tình của tôi nó là GIẤC THỤY DU có thật”. 
  
Mở tiếp trang thứ hai, ta đọc ngay một bài thơ hay “Có những điều đốt mãi chẳng thành tro…” kèm theo hai tấm ảnh tác giả mặc váy đen hoa, quàng khăn đỏ vừa đoan trang lại vừa quý phái. Bài thơ có 12 câu, vui lòng cho tôi cắt bớt còn lại 6 câu, 6 câu nầy nói lên cái ý chính của thơ:   
 
“Có những điều đốt mãi chẳng thành tro
Như vậy đó – bởi tình em bất tử”
 
“Một đóm lửa trên môi dù rạng ngời
Làm ấm áp và soi vào Đông tối”
 
“Vắn hay dài – Hoang vu hay đông đảo
…Có những điều đốt mãi chẳng thành tro!”
    
Chỉ cần đọc hai trang đầu ta có thể khái niệm hồn thơ trong “Giấc Thụy Du”, một hồn thơ chất chứa nhiều suy nghiệm với những băn khoăn của một giấc mơ dài trong cuộc đời hiện thực. 

NƯỚC MẮM – Sông Thao


Tác giả bài viết Sông Thao

Mỗi khi đi chợ Á đông, tôi thường la cà vào quầy nước mắm. Thấy có nhãn nước mắm mới là đứng… nghiên cứu. Dân nước mắm mà lỵ! Dân Mít ta vẫn cừ đùa giỡn với nhau là dân nước mắm nhưng thực ra dùng nước mắm không phải là chỉ dấu của người Việt. Trên thế giới có tới 500 triệu người sử dụng nước mắm trong nấu nướng. Toàn vùng Đông Nam Á là dân nước mắm. Thái Lan có nam-pla, Malaysia có budu, Indonesia có ketjap-ikem, Hàn Quốc có aek jeot, Kampuchia có toeuk trey, Philippine có patis. Tôi đã có thời gian gần một năm phải dùng patis của Philippine khi ngụ tại Quezon City vào năm 1973. Dở ẹc. Cũng phải thôi vì patis chỉ là phụ phẩm của mắm nêm bagoong. Nhưng nói đi cũng phải nói lại. Thời gian đó có patis cũng đỡ khổ cho cái miệng đã quen với nước mắm. Mới đây, khi vào một chợ Á đông ở Montreal, tôi chợt nhìn thấy patis. Nhớ lại một thời, cũng bồi hồi ra gì!


Trung Quốc, Nhật và Hàn Quốc cũng dùng nước mắm nhưng ít hơn. Hai nước đậm mùi nước mắm là Việt Nam và Thái Lan. Nhưng có một chút khác biệt. Không biết các nước khác ra sao nhưng dân Thái chỉ dùng nước mắm để nấu nướng chứ không dùng để chấm trên bàn ăn. Nếu dân các nước khác cũng chỉ để chai nước mắm trong bếp như Thái Lan thì chỉ có dân Việt ta thượng nước mắm trên bàn ăn. Vậy thì dân Mít tự cho là dân nước mắm là đúng chỉ số!

NHỮNG BÔNG CẢI GIỮA MÙA LỄ VU LAN - Hoàng Văn Ân

(Viết về mạ tôi - Thay cho một lời cầu nguỵên trong ngày Lễ Vu Lan)
                                                       
                                                 
Tác giả bài viết Hoàng Văn Ân


Buổi sáng thức dậy muộn, dư âm của một đêm vui vẻ cùng vài người bạn còn vương mãi trong đầu. Giấc ngủ đã tan biến để nhường cho cái cảm giác xa vắng, man mác buồn nhớ những ngày tháng xa xưa thoáng hiện về.
 

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2022

CHUYỆN VUI VĂN HỌC SÀI GÒN: CƠM CHÁY CỦA NGUYỄN THỤY LONG VÀ NGUYỄN ĐỨC SƠN – Lê Văn Nghĩa

Hay:
Chuyện vui "Nguyễn Đức Sơn đãi cơm Nguyễn Thụy Long".
 
Quán Anh Vũ ở đường Bùi Viện – Sài Gòn
 
“Bữa cơm nầy không phải tớ đãi cậu do tiền bạc mà do rút kinh nghiệm phương pháp chống đói. Con heo mất một miếng cơm cháy cũng chẳng thể đói hơn được. Nó đói thì nó la, chủ nó phải lo cám cho nó, Người dưng nước lã không bỗng dưng phải lo cho nhau. Con heo gầy bán mất giá, chủ nó phải vỗ béo để bán cho được nhiều tiền hơn. Mi, tao béo gầy thì đời cũng mặc mẹ, chết mặc xác…”

*
Khi Nguyễn Thụy Long sống lang thang, không nhà không cửa phải ngủ ở vỉa hè thì gặp được Nguyễn Đức Sơn – “thằng người Quảng điên điên khùng khùng thường hay đang thơ trên Sáng Tạo, Văn Nghệ, Quan Điểm” – thuộc loại chuyên gia ngủ ở khách sạn “ngàn sao”. Sơn lạc quan nói với Long đang trong cơn ốm đói  “… Mình rong chơi, rong chơi mà no đủ kìa, tiền tiêu có thể là không có, nhưng no đấy, ngày hai bữa đựơc không?”.
 
Tất nhiên là Nguyễn Thụy Long thấy không được mà là… quá được. Và đây là hành trình ngày hai bữa cơm mà Nguyễn Đức Sơn chăm lo cho Nguyễn Thụy Long.

NGÀY TỪ MẪU (MOTHER'S DAY) - Nguyên Lạc




NGÀY CỦA MẸ
 
Ngày của Mẹ (Mother’s Day) được tổ chức vào Chủ nhật thứ hai trong tháng Năm (the second Sunday in May), khi những người mẹ được con cái tôn vinh. Nhiều quốc gia kỷ niệm Ngày của Mẹ, thường vào tháng Năm, như một ngày để tôn vinh những người mẹ. Ở Anh, Ngày của Mẹ, hay Chủ nhật Làm mẹ, đã được tổ chức hàng trăm năm vào Chủ nhật thứ tư của Mùa Chay (thường là tháng Ba hoặc tháng Tư). Tại Hoa Kỳ, trẻ em bày tỏ tình cảm của mình đối với mẹ thông qua quà tặng, hoa, thiệp chúc mừng và các vật phẩm tri ân khác Ngày Mẹ đầu tiên ở US thường được công bố bởi nhà hoạt động Julia Ward Howe vào năm 1870 ở Boston để thúc đẩy hòa bình sau cuộc đổ máu của Nội chiến Hoa Kỳ. Vào đầu thế kỷ 20, Anna Marie Jarvis đã tổ chức Ngày của Mẹ để tôn vinh mẹ của bà (còn có tên là Anna Jarvis), người đã đấu tranh cho hòa bình cũng như sức khỏe và sự an toàn của người lao động. Jarvis đã tổ chức một buổi lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ với quy mô lớn. Ý tưởng đã được sự chấp nhận rộng rãi. Năm 1910, tiểu bang Tây Virginia lần đầu tiên công nhận Ngày của Mẹ là một ngày lễ, và tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đã ký một tuyên bố vào năm 1914 tuyên bố: Chủ nhật thứ hai trong tháng 5 là “Ngày của Mẹ” (the second Sunday in May: “Mother’s Day”).
 

MIỀN HOA NẮNG HẠ - Thơ Tịnh Bình


 
                          Nhà thơ Tịnh Bình

     
MIỀN HOA NẮNG HẠ
 
Nghe trong vạt nắng rơi
Bừng lên màu phượng chín
Cầm tay mùa hạ cũ
Chút gì nhoi nhói tim
 
Gió rung cành hoa nắng
Đậu trên vai học trò
Ríu ran bầy chim sẻ
Vô tư chẳng phiền lo
 
Bâng khuâng mùa thi cuối
Chia hai nửa phương trời
Trống tan trường lưu luyến
Thương hoài tóc dài ơi!
 
Về đâu mùa hạ cũ
Tương tư giấc mơ thầm
Khắc lên cây niềm nhớ
Ve hát lời trầm ngâm...
 
             TỊNH BÌNH
               (Tây Ninh)

THƯƠNG NHỚ MẸ - Thơ Quách Như Nguyệt, nhạc Đặng Vương Quân, ca sĩ Tâm Thư trình bày


   
                              Nhà thơ Quách Như Nguyệt

 

THƯƠNG NHỚ MẸ
 
Bao nhiêu bài thơ con làm
Chưa bài nào con làm cho mẹ
Hôm nay đọc những bài thơ về mẹ,
của bạn bè, con cảm thấy xót xa
Đúng quá đúng những bài thơ ngợi ca
Nước mắt con tuôn trào
Thấy thổn thức, thấy nhớ thương vật vã!
 
Nhiều năm qua kể từ ngày mẹ mất
Con lạc loài, hụt hẫng lắm mẹ ơi
Không còn mẹ, ai dậy dỗ trên đời
Những lúc khổ chẳng còn ai tâm sự
Ai khuyến khích, ai mừng con khá giả
Ai nghe con chia sẻ chuyện âu sầu...
 
Khi quấn khăn tang mầu buồn trắng lên đầu,
dẫu vẫn biết... từ đây mình mất mát
Đâu ngờ rằng mất nhiều quá mẹ ơi!
 
Không có ai hiểu con bằng mẹ hiểu
Mất mẹ rồi, trống vắng biết bao nhiêu
Thèm mẹ mắng, nghe mẹ cười hớn hở
Mất thật rồi… ai nâng đỡ, thương yêu
Mẹ thương con, tình thương vô điều kiện
Mẹ thương con tình mẹ chẳng bến bờ
 
Bao nhiêu tuổi vẫn là con của mẹ
Mẹ mất rồi con bé bỏng với ai
Bao nhiêu tuổi vẫn là con gái mẹ
Thèm dụi đầu vào nách mẹ, ôm vai
 
Hoa hồng trắng con ngậm ngùi cài áo
Cài hàng năm vào ngày lễ Vu Lan
Nhớ mẹ yêu con đã khóc nghẹn ngào
Tháng Bẩy ta mùa Vu Lan báo hiếu
Mẹ còn đâu mà đền trả, mẹ yêu…
 
Mẹ yêu ơi hôm nay con nhớ quá
Nhớ mẹ hiền, con nhớ quá mẹ ơi?
Ngày hiền mẫu không còn mẹ trên đời
Thương nhớ mẹ, mẹ của con, mẹ hỡi…
 
                            Quách Như Nguyệt

 
       

                       Nhạc: Đặng Vương Quân
                      Thơ: Quách Như Nguyệt
                      Ca sĩ: Tâm Thư

Thứ Hai, 9 tháng 5, 2022

NỒI CHÁO THỊT - Truyện ngắn của nhà văn Nhật Tiến.


     
Lão Quới đứng chết lịm ngay trên nền đất ẩm. Cơn giận kéo đến quá nhanh đến độ lão thấy cổ họng của mình như bị chận ngang tưởng muốn ngộp thở. Đôi mắt của lão nóng lên dần dần. Lão cảm thấy mạch máu ở hai bên thái dương chảy rậm rật. Trước mắt lão là lớp giậu thưa bị xé toang một mảng. Bên dưới chỗ bị xé toang một mảng là những lốt chân trên nền đất dẫn tới một luống khoai.
  

THI PHÁP THỰC DỤNG – Phạm Đức Nhì


Nhà bình thơ Phạm Đức Nhì
 
Lời Nói Đầu
 
Bài “Phỏng Vấn Nhà Thơ Phạm Đức Nhì Về Bình Thơ” của Nguyễn Hoàng Nam phổ biến được ít lâu tôi nhận đựợc thắc mắc của một số bạn đọc, đại ý:

1/ Bình thơ có bàn thi pháp sẽ bàn đến những “điểm” nào của bài thơ?

Và:

2/ Những điểm đó ảnh hưởng ra sao đến sự HAY, DỞ của bài thơ?
 
Hai Cách Làm Thơ Và Hai Hướng Đi Của Thơ
 
1/ Phe Kiếm Tông: Chú trọng “chiêu thức”.
 
 Thi sĩ thường làm thơ ngắn (4 câu), thơ đường luật hoặc chọn thể thơ Trường Thiên phân mảnh đứt đoạn - nhiều đọan, mỗi đoạn 4 câu – (Thơ Haiku cũng thuộc loại này).
Vì không có dòng chảy, cảm xúc hố nào nằm im ở hố đó không lưu chuyển nên không có “sóng sau dồn sóng trước”, không có cao trào, không có hồn thơ.
 Để chinh phục độc giả thi sĩ chỉ trông nhờ vào ý tứ, câu chữ, ngôn ngữ hình tượng, các thủ pháp kỹ thuật, các biện pháp tu từ, nói chung là cái đẹp văn chương.
 
2/ Phe Khí Tông: Chú trọng nội công, cảm xúc.
 
Thi sĩ cũng sử dụng chiêu thức nhưng chú trọng nội công.
Nói theo ngôn ngữ văn chương thì đây là loại thơ chú trọng Cảm Xúc – chinh phục độc giả không phải bằng thứ cảm xúc bình thường nằm trong ý nghĩa của câu chữ, thế trận của bài tthơ mà là “luồng hơi nóng nằm giữa hai hàng kẻ” – nghĩa là nằm ngoài câu chữ.
 
Đó là thứ cảm xúc cao cấp, cho độc giả cái cảm giác đã nhất, sướng nhất - người ta gọi là hồn thơ. Hồn thơ chỉ có thể xuất hiện khi lý trí vắng mặt, chữ Xạo trong lời thơ, ý thơ trốn mất. Thi sĩ và độc giả - qua bài thơ – trò chuyện với nhau bằng Tiếng Người Chân Thật.
Như vậy, nếu có tầm nhìn xa hơn, thi sĩ sẽ chọn hướng đi của phe Khí Tông. Nếu thi pháp thích hợp, tâm thế lại đang trong cơn cao hứng đến mức nổi điên, ngài sẽ có cơ hội cùng bài thơ của mình bước vào Bến Bờ Thi Ca.

Mà dù chưa thể đến đích, bài thơ viết theo hướng này rất dễ tạo được cảm xúc tầng 3, được đánh giá cao hơn những bài thơ làng nhàng của phe Kiếm Tông.
 

TA VỀ - Thơ Trần Mai Ngân


 
             Nhà thơ Trần Mai Ngân
 

TA VỀ
 
Ta về nhẹ như sương
Ngồi soi lại bóng mình
Có dòng sông lặng thinh
Trăm năm cõi vô minh
 
Ta về vàng đèn khuya
Bước ngập ngừng sợ vỡ
Ai đang tròn giấc mơ
Nào biết đời thờ ơ...
 
Ta về xưa cổ tích
Người như dấu chim bay
Mộng đã tan theo ngày
Trốn chạy tình loay hoay
 
Ta về nhuộm sắc không
Máu đỏ con tim khóc
Ngàn Bỉ Ngạn mênh mông
Lòng đã cách xa lòng
 
Ta về lạc lối đi
Chánh điện buồn hương khói
Nhặt cánh hoa từ bi
Chuông ngân... bóng em quỳ !
 
                     Trần Mai Ngân

Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2022

NHỮNG TỪ NGỮ LÝ THÚ BẤT NGỜ: “PHỤ NỮ 婦女” – Đỗ Chiêu Đức




Chữ NỮ theo "CHỮ NHO...DỄ HỌC" là một trong 214 bộ của hệ thống chữ Nho, được hình thành theo lối Tượng Hình 象形 trong Lục Thư 六書 là sáu cách hình thành chữ viết, có diễn tiến như sau:
 
                     
Giáp Cốt Văn   Kim Văn      Đại Triện        Tiểu Triện        Lệ Thư
 

Thứ Bảy, 7 tháng 5, 2022

NHẠC SĨ DZŨNG CHINH, TÁC GIẢ BẢN NHẠC “NHỮNG ĐỒI HOA SIM” CHẾT TRÊN ĐỒI HOA SIM - Phạm Tín An Ninh


Nhạc sĩ Dzũng Chinh (*)
 
Đã có một vài bài viết nói về cái chết của Nhạc sĩ Dzũng Chinh, nhưng tiếc là không chính xác.  Bài viết này nhằm mục đích làm rõ cái chết của ông, một nhạc sĩ trẻ được nhiều người biết đến qua nhạc phẩm “Những Đồi Hoa Sim”. Người viết bài này đã ở cùng một đơn vị với ông khi ông tử trận
 
Nhạc sĩ Dzũng Chinh không có nhiều sáng tác, nhưng nhạc phẩm “Những Đồi Hoa Sim” đã làm nên tên tuổi ông. Bài hát được phổ biến trong những năm đầu thập niên 1960, thời điểm chiến tranh Việt Nam bắt đầu khốc liệt, hàng hàng lớp lớp thanh niên miền Nam, hầu hết là những học sinh, sinh viên tạm gác bút nghiên, lên đường tòng quân bảo vệ giang sơn. Bài hát Những Đồi Hoa Sim (viết theo ý bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan, một nhà thơ sống ở miền Bắc) phổ biến rất rộng rãi và nhanh chóng được quần chúng đón nhận khá nồng nhiệt, đặc biệt trong hàng ngũ lính chiến miền Nam Việt Nam.
 

Nhạc sĩ Dzũng Chinh cũng là một người lính chiến thực thụ. Tên thật là Nguyễn Bá Chính, quê quán ở Bình Can -Võ Cạnh- Nha Trang (sinh ngày 18/12/1941). Trước khi theo học khóa sĩ quan đặc biệt ở Đồng Đế Nha Trang, anh là hạ sĩ quan phục vụ tại Tiểu Đoàn 2/14/ Sư Đoàn 9 Bộ Binh thuộc Vùng IV.  Cuối năm 1968, sau khi tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy, anh chọn đơn vị Sư Đoàn 23 BB và xin được phuc vụ tại Trung Đoàn 44 (trú đóng tại Sông Mao, Phan Thiết).