BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 19 tháng 10, 2020

RỤNG CUỐNG THU – Thơ Tịnh Bình

 
   


RỤNG CUỐNG THU

Không nhớ bao lần cầm mây trắng
Nôn nao theo đường bay vô định của lũ chim di
Lý do gì bầy mây dỗi hờn úp mặt
Rưng rức mưa nhòa...

Không nhớ bao lần nằm trên cỏ xanh
Ngửng tìm tiếng hát vi vu của cánh diều giấu mặt
Dòng sông không nói gì
Chỉ khẽ ôm vào lòng từng đám mây trong

Không nhớ bao lần tôi vỗ về tôi
Nghe ngóng âm thanh cơn mưa từ nơi xa
Trong khuya tiếng gió trở mình
Và mùa thu
Âm thầm
Rụng cuống...
                                                              Tịnh Bình
                                                              (Tây Ninh)

NGƯỜI ĐÀN BÀ LÀM THƠ, GIẺ XƯƠNG THỨ BẢY, NẾU KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ, LÀ EM THÔI, MIỀN NẠ DÒNG – Thơ Ái Nhân

   

ÁI NHÂN
Tên thật Bùi Cao Thế
Đt:0984470914
139- 399- Ngọc lâm – Long biên –Hà nội
TK Bùi cao Thế 10524096395016 Techcombank
Chi nhánh Chương dương – HN



NGƯỜI ĐÀN BÀ LÀM THƠ

Người đàn bà làm thơ
Tự tình cùng ký ức
Hôn lên rưng rức nỗi buồn
Nhặt mảnh trăng rơi, mơ hồ hạnh phúc

Trở lại bến xưa
Ngược dòng hò hẹn
E thẹn lời yêu
Ngang chiều ngần ngại

Người đàn bà làm thơ
Thấy mình trẻ lại
Hân hoan dâng môi trinh con gái
Lên tình đầu vụng dại…

Khao khát tri âm
Ru thầm bóng ước
Lệ lòng đẫm ướt… lên trăng

THƯƠNG NHỚ NGƯỜI DƯNG – Thơ Nhã My, nhạc Phan Ni Tấn.


   
                         Nhà thơ Nhã My

 
THƯƠNG NHỚ NGƯỜI DƯNG
(Lời chàng trai quê)

Bậu ơi đã bỏ đi rồi
Đêm hôm có kẻ đứng ngồi không yên
Thuơng em chẳng biết đâu tìm
Nhìn theo con nước bóng chim xa mờ
Còn ai đâu để đợi chờ
Em xa em có thẩn thờ nhớ quê
Nhớ chiều hai đứa trên đê
Cùng nhau lúa chín gánh về làng xa
Nhớ hôm anh bước qua nhà
Chợ xa có chút  làm quà cho em
Em cười đôi mắt long lanh
Chờ nhau đến lúc anh sang rước nàng
Cuộc đời sao lắm trái ngang
Tình yêu không có bạc vàng cũng không
Nhớ hôm em bước xuống đò
Bởi mê của cải tình ta lở rồi
Nhìn em anh những bồi hồi
Người ta lắm bạc nhiều tiền em ưng
Bây giờ thương nhớ người dưng
Ngẩn ngơ nhớ bậu nửa mừng nửa đau
Mừng cho em đến chỗ giàu
Mà đau vì nỗi xứ nào xa xôi
Đây rồi chẳng biết em tôi
Có vui hạnh phúc hay đời long đong
Bậu ơi! Sao vội lấy chồng ?!?

                                           Nhã My


      

Thơ: Nhã My.
Nhạc: Phan Ni Tấn.
Hòa âm: Trần Nhàn.
Tiếng hát: Quốc Duy.

TRUNG HOA MỘNG - Thơ Nguyễn Khôi

Nguyễn Khôi
Sinh năm 1938
Quê quán: Đình Bảng - Huyện Từ Sơn - Tỉnh Bắc Ninh
Hội Viên:
Hội Nhà Văn Hà Nội
Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội
Hôi Dân tộc học Việt Nam
Ủy viên BCH Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam
Chuyên viên cao cấp, nguyên Phó Vụ Trưởng Vụ Dân Tộc Văn Phòng Quốc Hội

ĐÃ XUẤT BẢN:
Trai Đình Bảng (thơ) 1995,2000
Gửi Mường bản xa xăm (thơ) 1998
Trưa rừng ấy (thơ) 2005
Bắc Ninh thi thoại (khảo cứu) 1997,2000,2004
Cổ pháp cố sự (tùy bút) 2003
Xứ Thái mù sương (tùy bút) 2001
Tiễn dặn người yêu, Khun Lù Nàng Ủa, Út Ơ về Kinh, Ỳ Nọong-Nàng xưa, Tiếng hát làm dâu...(dịch-chuyển thể) 1996, 2003...


    

                   
 TRUNG HOA MỘNG

“Thập niên nhất giác Dương Châu mộng
Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh” (1)
                        
Ôi, lịch sử 5000 năm Hoa Hạ
Từ Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh
tới Mao Trạch Đông vĩ đại
1949 lập Nước Trung Hoa đỏ
Ngọn súng dựng lên Chính quyền
tắm máu Nhân dân (vượt tầm Phát xít)
bùng phát Hồng Vệ Binh
                          Mười năm động loạn...
Từ “chuồng bò” (2)
ngoi lên Đặng Tiểu Bình
“bất kể Mèo trắng hay Mèo đen miễn là bắt được Chuột”
 bắt tay Đế quốc Mỹ
                           hùn đánh sập Liên Xô
Giấu mình chờ thời
                          Mộng làm Bá chủ !
Thời thế mang mang
Xuất hiện tốp “Thái tử Đảng”
Vọt lên Tập Cận Bình
                             thành vị "Hoàng Đế đỏ"
mở “đường tơ lụa mới”
                             theo vết đổ Liên Xô
Gióng trống, khua chuông “sắp làm Bá chủ”...
Nhân loại hiểm nguy
Trời không dung
Xuất hiện Tổng thống Mỹ Donald Trump
ra đòn, điểm huyệt
Mới sơ sơ “Chiến tranh thương mại”:
-Chứng khoán bốc hơi
-đồng “Nguyên” lao dốc...
Hội nghị Bắc Đới Hà nhà Tàu rạn nứt:
- Vương Hộ Ninh (túi khôn)
- (Lưu Hạc (kinh tế)
vắng tịt ?!
Những băng rôn khẩu hiệu tự Ngợi ca
một đêm giấu biệt.
Vốn hung hăng Bành trướng, hăm dọạ Chiến tranh
Hãy nghe Thái Văn Anh (nữ Tổng thống Đài Loan):
-“Sẽ bắn tan Tam Hiệp đập
                     cho nửa Trung Cộng trôi ra biển cả”...
Ôi, giấc mộng Trung Hoa
Ôi, Hoàng Đế đỏ
các Ngươi làm trái mệnh Trời
                                       Thế giới đảo điên
Người đang gieo “Hạt giống Suy tàn”
5000 năm Hoa Hạ !

Hà Nội 19-8-2018
Kỷ niệm 73 năm Cách mạng tháng 8/1945
NGUYỄN KHÔI

---------

(1) Thơ Lý Thương Ẩn:
“Mười năm tỉnh giấc Dương Châu lại
Còn giữa lầu xanh tiếng phụ lòng”
(2) Thời Cách mạng Văn Hóa: Đặng Tiểu Bình ( Tổng bí thư) bị phế truất xuống Nông thôn lao động, có lúc bị nhốt trong Chuồng Bò.

Thứ Năm, 15 tháng 10, 2020

BÌNH YÊN, BỐN CÂU, BỮA TIỆC TRẦN GIAN - Thơ Lê Văn Trung


    


BÌNH YÊN

Có giây phút thật bình yên
Lòng như mây trắng bập bềnh trong sương
Áo vàng ươm gió vừa đông
Lạnh vừa đủ thắm môi hồng em tôi
Xa xa cánh én lưng trời
Báo tin rằng có một người về thăm
Cám ơn trời đất bao dung
Cám ơn em,
Một lần là trăm năm.
            

BÌNH THUẬN TRONG HÀNH TRÌNH MỞ ĐẤT - Phan Chính


          

Có lẽ địa danh Bình Thuận xuất hiện sớm nhất vào năm Đinh Sửu (1697), lúc ấy là một phủ của trấn Thuận Thành, sau khi Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế sai Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính dẹp được nạn loạn vua Chiêm Bà Tranh và chiếm được phần đất cuối cùng của Champa từ Phan Rang đến xứ Chân Lạp. Thời vua Gia Long đặt dinh Bình Thuận, rồi đến Minh Mạng thứ 4 (1823) đặt lại phủ Bình Thuận có 2 huyện An Phước và Hòa Đa. Trong quảng thời gian gần 130 năm đó, Bình Thuận qua nhiều lần thay đổi cấp hành chính dinh, trấn, phủ bao gồm một phần đất của Ninh Thuận, Lâm Đồng và phía nam Tây nguyên.   

BẾN CÁT – Thơ Đoàn Thuận


   
                             Nhà thơ Đoàn Thuận

      
BẾN CÁT

Đường về Bến Cát trông xa mờ.
Mây thả sợi mưa nhuyễn như tơ
liu riu trên lá hoa vắp trắng,
hương trời thơm thảo bay mơ hồ.

Thôn cũ mái xưa bên vườn đồi
Bờ hoa, luống cải, rạch bèo trôi
Lá úa rụng đầy trong lặng tĩnh.
Mây lạnh lửng lơ lưng chừng trời.

Hang Trong, Hang Ngoài bao lối đi.
Gò cao gò thấp bao hoa quì,
như mong du tử về quê mẹ
cho khô giọt lệ mùa chia ly.

Bến Cát thuyền neo dưới mưa đêm,
dưới tàng hoa vắp hương dịu êm.
Sông trôi mấy độ bên bờ liễu.
Hạnh Thông thơ mộng đời êm đềm.

                  Hạnh Thông Tây, 1962
                                Cát Sỹ

Thứ Tư, 14 tháng 10, 2020

“KHỜ ĐẾN THẾ LÀ CÙNG” CẢM NHẬN KHI ĐỌC “VIẾT CHO KHỜ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Trần Thị Hồng Châu


           
                  Tác giả bài viết Trần Thị Hồng Châu


Chúng ta đang sống trong thời đại 4.0 mà người ta xem chữ TÌNH nhẹ phều.
Người ta có thể thay người yêu như thay áo, có thể đem chuyện tình cảm ra mua bán, giao dịch, đổi chác... Bữa nay quấn quýt anh anh em em, ngày mai đã quay phắt lạnh như tiền, gọi nhau thằng này con kia... Thế nên chuyện TÌNH "Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng" mà Cụ Nguyễn Du nói đến cách nay mấy trăm năm đã xưa lắm rồi, đã dần khan hiếm lắm rồi! Nếu có người vì tình còn vương, còn vấn, còn tiếc, còn nuối, sẽ bị người ta cho là ĐIÊN, là KHÙNG mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến lại có hẳn một bài thơ VIẾT CHO KHỜ về sự “điên”, “khùng” ấy với những vấn vương, tiếc nuối.

TẢN MẠN ĐÔI ĐIỀU VỀ TRÀ (Kỳ 7) – Nguyên Lạc

 


DỤNG CỤ UỐNG TRÀ

Như đã biết ở phần trên: Đoàn trà là bánh trà được bỏ thẳng vào bình nước nóng đang sôi, rồi rót nước trà ra chén uống. Mạt trà là bột trà để trong chén rồi rót nước được đun sôi vào. Đoàn trà tức là lối của Lục Vũ đời nhà Đường, chúng ta không theo. Chúng ta hiện nay không uống theo lối Mạt trà từ đời nhà Tống như người Nhật Bản – đây là cách uống trà trong Trà Đạo của Nhật. Cả hai cách uống trà này không cần ấm trà hay trà hồ. Ngày nay chúng ta uống trà là theo lối uống trà của đời nhà Minh, khoảng thế kỷ thứ 16 : Đó là uống theo lối trà ngâm, Tiễn trà hay Yêm trà – tức là bỏ trà khô vào ấm trà, rồi chế nước sôi lên, sau đó rót ra chén mà uống. Chính cách uống trà ngâm này như trên đã nói, làm phát triển ngành gốm sứ phục vụ việc uống trà – trà cụ. Quyết định dùng tiễn trà là động cơ thôi thúc các nghệ nhân lò Cảnh Đức Trấn, tỉnh Giang Tây và lò Yixing, tỉnh Giang Tô vẽ ra nhiều kiểu ấm và chén tinh xảo cho cách thức uống trà mới.

HỊCH CỨU TẾ LƯƠNG DÂN BỊ LŨ LỤT MIỀN TRUNG (Ở NGHỆ AN, HÀ TĨNH,…) THÁNG 10 NĂM 2010 – Nguyễn Phúc Vĩnh Ba



Hỡi ôi!
Nước cuốn sóng lùa,
Người trôi của mất.
Mấy chục năm vun bồi cơ cực, sống nghèo sống khổ, sống thì đành sống vãi mồ hôi,
Hai trận lũ trôi cuốn (1) kinh hoàng, chết trẻ chết già, chết mà cũng chết không nhắm mắt.
Nọ nọ bao oan linh đã khuất, vật vờ phách lạc hồn phiêu,
Kìa kìa ngàn nhân khẩu đang còn, xơ xác nhà xiêu vách nát.
Tai mới nghe tin,
Lòng đà quặn thắt.
Nhớ mới đây,
Nhất mực hiền lương,
Vô cùng chất phác.
Trai nơi cõi ven rừng sát  núi, cuốc với cào hăng hái rẫy nương,
Gái ở chốn cạnh suối men khe, khoai cùng sắn um tùm vườn tược.
Nhà đâu được gác cao cửa rộng, che nắng mưa thế đã là may,
Ăn thì toàn cơm lạt rau xanh, đầy ruột bụng rằng thôi cũng được.
Đất chạnh xót, trái hoa đơm nẩy, vầy anh em dựng nghiệp phong nhiêu
Trời cũng thương, ngày tháng yên lành, nuôi con cái mơ đời tươi tốt.
Từ Hưng Nguyên qua Vụ Bản (2), ngàn cây xanh bóng lá sây cành,
Mãi Can Lộc tận Hương Khê (3), vạn đồng vàng lúa thân trĩu hạt
Những mong tới thuở lên hương,
Đâu nghĩ có ngày mất tuốt.

NÊN GỌI QUAN ÂM HAY QUÁN ÂM – Đỗ Chiêu Đức


                                          Học giả Đỗ Chiêu Đức

Những năm gần đây, hầu như tất cả các chùa chiền, tăng ni, cư sĩ, Phật tử... kể cả trong nước lẫn ngoài nước, đều có thói quen gọi QUAN Thế Âm Bồ Tát thành QUÁN (có dấu SẮC) Thế Âm Bồ Tát ?!?

Mới nghe một hai lần đầu, tôi cứ ngỡ là người ta đọc sai, đọc lộn âm, nhưng chẳng những tín đồ Phật tử, cư sĩ tăng ni mà ngay cả các Tỳ kheo Đại đức, Thượng tọa Cao tăng khi tụng kinh hay đăng đàn thuyết giảng, hễ có dịp nhắc đến QUAN Âm Bồ Tát thì đều đọc là QUÁN Âm Bồ Tát cả ! 

NỖI ĐAU MÙA LỤT - Thơ Châu Thạch


   


NỖI ĐAU MÙA LỤT

Con ơi nước đã rút rồi
Con ra ngoài ngỏ mà ngồi đợi cha
Cha đi bè ngược hôm qua
Đến nay nước rút mà cha chưa về

Con ơi lòng mẹ tái tê
Phần lo nhà ngập phần về cha con
Phận nghèo đã héo đã hon
Trời gieo thêm hoạ chẳng còn chi ăn

Mẹ ơi nhìn xa phải chăng
Hình như nước lụt lại giăng hàng về
Mẹ ơi nước đã ngập đê
Mẹ ơi nước đã lên kề mái tranh

Con ơi nước đã xây thành
Là do thủy điện xả nhanh nước hồ 
Ông trời còn nhẹ tay xô
Tay người đẩy hết xuống mồ con ơi  

Mẹ ơi ở cuối chân trời
Có thuyền càng lúc càng bơi gần nhà
Chắc là thuyền ấy của cha
Mua đồ ăn uống cho ta chở về 

Mẹ ơi thuyền đã đến kề
Than ôi! một cảnh não nề, than ôi!
Mẹ ơi cha đã chết rồi
Người ta vớt xác cha trôi giữa dòng!

Mẹ ơi! Con ơi!

                                     Châu Thạch 

Thứ Ba, 13 tháng 10, 2020

THƯƠNG LẮM QUÊ MÌNH – Chùm thơ mùa lũ của Nhóm Sông Quê


   


Tháng Mười mưa ướt lời thơ
Sông Quê ngồi khóc bên bờ sông quê

THƯƠNG LẮM QUÊ NHÀ

Quảng Trị miền Trung là quê tôi đó
Cả tuần ni lụt bão cứ tràn về
Nước dâng cao mà trời thì mưa gió
Nhà đổ, người trôi…lắm cảnh não nề
Nơi phương Nam dòng đời đi chậm lại
Theo dõi từng giây, tin sớm, tin chiều
Bao con tim ngóng về quê xa ngái
Bóng ngã, chiều nghiêng, đầu óc liêu xiêu
Làng ngoại tôi ngập chìm trong biển nước
Cây cối oằn mình nhà cửa bấp bênh
Hình ảnh tang thương khiến lòng đau buốt
Đâu vườn quê hoa nở thắm bên thềm
Gọi cho cậu mấy lần không kết nối
Điện cắt rồi (chắc máy đã hết pin)
Gọi cho em, nói dăm câu vội vã
Em bận kê giường nước ngập chị ơi
Gọi cho anh, trong làn gió hú
Anh vội vàng: Anh vẫn bình an
Điện thoại để dành khi cần cứu hộ
Bốn ngày rồi anh ở gác trên
Gọi cho bạn, tiếng thở dài não nuột
"VP ơi, H bị gãy tay nằm một chỗ- nước vô nhà"
Trời ơi thảm cảnh nào hơn
Nước mắt tràn mặn đắng
Lòng nhói đau - lời cầu nguyện nghẹn bờ môi
Đã qua một thời
Chiến tranh khói lửa
Thành xây máu xương
Sao trời không thương
Thiên nhiên khắc nghiệt
Hè rồi hạn hán cằn khô
Gió Lào cháy tóc. Ao hồ cạn queo
Cơn mưa vừa mới lao xao
Mừng chưa kịp, nước đã ào ào tuôn
Lại thêm bão tố luông tuồng
Số 6 vừa tan. Số 7 lại đến
Dập dồn
Đói
Lạnh
Của cải chắt chiu chừ theo dòng nước bạc
Tính mạng người phó mặc trời cao
Thương quê không biết làm sao
Chút lòng thơm thảo góp vào sẻ chia
Câu ca dao cũ còn kia
“Người trong một nước…”
… Huống chi quê mình…

                 Nguyễn Thị Vĩnh Phước

BA BÀI THƠ DÙNG PHƯƠNG NGỮ QUẢNG TRỊ - Trương Thúc

“Bạn là người Việt Nam, qua bài thơ có nhiều phương ngữ của vùng quê Quảng Trị này, bạn hiểu được bao nhiêu % ?”




VỀ ĐI EENG

Eng về Quảng Trị chưa eng?
Lâu ni tui cứ để đèng riệu ngon.
Rào miềng cá mú nỏ còn
Dái thì cũng ít huống con ếc bà
Tắn ngoài roọng tìm khôông ra
Nên chi muốn dậu phải qua chợ tìm.
Còn mô kỳ lúc mùa chim
Ui chao dớ lại tréc rim tréc xào!
Dắc lại béng sắn năm nao
Eng tam miềng khổ lao đao giêng về.
Thương đứt rọt mạ ở làng quê
Cứ dắc eng mãi "hắn về chưa bây"?
Rứa răng đoạn tháng đoạn ngày
Bỏ làng, bỏ nác, chim bay bời bời!
Dịp cầu côi troóng chơi vơi
Chờ chi chờ mãi chưn người đi xa
Thương làng thương nác thì ra
Eng tam gặp mặt mạ tra một lần
Quê hương cắt đún tình thân
Mần răng cũng gắng một lần nghe eng!


THƯƠNG LẮM MIỀN TRUNG - Thơ Ái Nhân


   


THƯƠNG LẮM MIỀN TRUNG

Nhà đài báo đêm có mưa dồn dập
Khắp dải Miền Trung nước ngập trắng trời
Ngoài biển động, mây ùn ùn kéo tới
Bão đang về thê thảm quá người ơi!

Nước cưỡi mái nhà, mây xà xuống thấp
Sóng vỗ cổng làng chết đuối ngọn tre
Chắc thiên giới nước sông trời vỡ đập
Dòng êm đềm bỗng hóa biển gớm ghê

Rồi lại Miền Trung lúa thối tứ bề
Rồi lại tả tơi nhà xiêu vách đổ
Lợn gà trôi, dân đã nghèo thêm khổ
Miền trung ơi, muôn khúc ruột rối bời!

Lũ tiếp lũ sóng trào ngang mặt
Mưa bão bất thường, cuồn cuộn gió giông
Khắp bốn bề trắng nước ngập mênh mông
Những làng mạc xác xơ cơn đói khát

Dải đất Miền Trung, gió Lào bão cát
Vết chân đi dài mãi chẳng thành đường
Cha gánh cực đổ lên non một kiếp
Vẫn cơ hàn lam lũ bám theo sau

Gian khổ miền Trung tảo tần dáng mẹ
Tấm lưng gầy còm cõi vóc cha
Lòng rộng mở bao dung như biển cả
Lầm lũi đi trong gió cát mưa gào

Xin dừng lại, trời ơi xin đừng bão!
Cứ mãi thiên tai lam lũ đến bao giờ?
Tan cửa nát nhà tang tóc bơ vơ
Người đã chết chưa được về với đất

Gian khó Miền Trung tầng tầng chất ngất
Xơ xác quê nghèo gian khổ mãi theo
Mưa bão, gió Lào, mịt mù cát trắng
Hoa xương rồng đội nắng cõng gieo leo

Thương lắm Miền Trung cứ mãi khó nghèo
Mùa bão lũ bốn bề như biển cả
Bão dội lòng người mưa rơi tầm tã
Lũ trên nguồn sóng cả cuối Sông La

Thương lắm miền Trung se sắt lệ nhòa
Kết nối vòng tay yêu thương bạn nhé!
Muôn trái tim hướng lòng về phía mẹ
Khúc ruột nghĩa tình… dằng dặc Miền Trung!

                                                           Ái Nhân

Thứ Hai, 12 tháng 10, 2020

EM ĐI – Thơ Đặng Xuân Xuyến


   
                     Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến

 
EM ĐI
(Với TTQT)

Em đi
bóng đổ đèn mờ
Phố xưa nhạt tiếng bao giờ lại quen
Anh về ướp mật ủ men
Đã mười năm
phố vẫn chen gió lùa.

Hà Nội, ngày 09 tháng 10-2020
Đặng Xuân Xuyến

THA THỨ, KHÔNG LẼ, THƠ 1–2–3 / Trần Mai Ngân


 
 
  
THA THỨ

Mười yêu, mười thương , trăm nhung nghìn nhớ
Anh nợ em...
Thật thà hết lòng đàn bà trao gửi
Anh nợ em...
Dòng sông lặng im chở lời dối gian chiều nay ra biển
Em tha thứ...
Trăng hoa đong đưa loài bướm ong tìm đường lạ quên về
Em tha thứ...

Nhưng ...
Trái tim người đàn bà đã chết
Không cách gì quay lại của ngày xưa...

TẢN MẠN ĐÔI ĐIỀU VỀ TRÀ (Kỳ 6) – Nguyên Lạc


CÁCH TRỒNG VÀ CHẾ BIẾN TRÀ

 1. Cách trồng:

Cây Trà có tên khoa học là Camelia Sinensis, là một trong những thực vật thuộc Họ Theacae, lá xanh tốt quanh năm và hoa thì màu trắng. Sau năm năm, cây Trà được coi là trưởng thành và cho hoa lợi liên tiếp trong hai mưoi lăm năm hay lâu hơn nữa tuỳ theo sự chăm sóc và tưới bón của nhà nông. Thông thường cây trà có độ cao tới hàng chục thước nhưng để tiện dụng cho phu hái trà, người ta hãm chỉ để cho cây đạt độ cao tối đa chừng 1-1,50m. Riêng những cây già thì cắt ngang thân để mầm non nẩy chồi mới và theo phương pháp này, trà đạt tuổi thọ hơn một thế kỷ là sự thường.