BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 31 tháng 1, 2018

TRĂNG CỐ NHÂN - Thơ Võ Thạnh Văn


      


      TRĂNG CỐ NHÂN

      Có phải trăng mười năm trước
      Vể soi tiệc rượu đêm nay
      Trăng nầy, trăng xưa bội ước
      Về cười thống hận men cay

      Có phải trăng xưa yểu mệnh
      Lụy tình treo cổ bên song
      Trăng nào, trăng xưa bạc hạnh
      Hận tình tự vận ven sông

      Có phải trăng xưa bội bạc
      Về trau chuốt giọng cuồng ngâm
      Phụ tình, trăng xưa đài các
      Về khoe xiêm áo xênh xang

      Có phải trăng thề cổ độ
      Về giăng tình võng truy hoan
      Trăng nầy, trăng xưa dang dở
      Về gieo hương sắc tân toan

      Trăng nào, trăng xưa lơ lẳng
      Về phơi hạt bụi đa tình
      Lỗi hẹn, trăng xưa lãng đãng
      Còn gieo duyên dáng nịch nhân

      Kênh kiệu, trăng xưa lơi lả
      Về dâng lá ngọc cánh vàng
      Ngạo nghễ, trăng xưa vương giả
      Khuya về xé lụa ngân vang

      Lãng mạn, trăng xưa điệu hạnh
      Mời người nhập hội uyên ương
      Trăng nào điêu ngoa thái thậm
      Về bung tóc lả nghê thường

      Vuốt mặt đón trăng bầu bạn
      Vỗ bàn cười hát nghênh ngang
      Tiếp trăng, đeo gươm hào sảng
      Đốt thơ pha rượu uống tràn

      Tài hoa, thách trăng múa kiếm
      Quan hoài, nài trăng thổi tiêu
      Cảm khái, ép trăng say lịm
      Mềm lòng, trăng khóc cô liêu

      Trăng tao nhân, hề, thất chí
      Trăng mặc khách, hề, ưu nhiên
      Trăng tráng sĩ, hề, phóng khí
      Trăng cố nhân, hề, miên miên

                          Phù hư dật sĩ
                    VÕ THẠNH VĂN
                              1985

Thứ Hai, 29 tháng 1, 2018

CÔ NGUYỄN THỊ THANH, GIÁO SƯ DẠY PHÁP VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG QUẢNG TRỊ - Đoàn Đức


             

     CÔ NGUYỄN THỊ THANH, GIÁO SƯ DẠY PHÁP VĂN 
     TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG QUẢNG TRỊ

Cô Nguyễn Thị Thanh
Dạy Pháp Văn sinh ngữ 2 Đệ Tam C (Lớp 10) và Đệ Nhị C (Lớp 11)
- Trong hai niên khóa 1964 - 1965, 1965 -1966

Lên Đệ Nhị Cấp, cô Thanh là người tôi rất quý mến, gia đình cô ở Thạch Hãn, quận Mai Lĩnh cùng làng với tôi. Chính nhờ cô mà tôi thích tiếng Pháp, rồi say mê văn chương cùng các trào lưu văn học Pháp từ lãng mạn, siêu thực, tương trưng cho đến hiện sinh. Tuổi thơ Đệ Nhị Cấp tôi miệt mài với các tác phẩm Lettres De Mon Moulin (Lá Thư Hè) của Alphonse Daudet, La Porte Étroite (Khung Cửa Hẹp) La Symphonie Pastorale (Hòa Âm Điền Dã) của André Gide, Bonjour Tristesse (Buồn Ơi Chào Mi), Aimez Vous Brahms (Cô thích nhạc Brahms ?) của Francoise Sagan và Le Malentendu (Ngộ Nhận), Le Vent à Djémila (Gió về Djémila), Le Mythe De Sisyphe (Huyền Thoại Sisyphe) của Albert Camus… là từ sự hướng dẫn dạy dỗ, khơi gợi của nhiều thầy cô, trong đó cô là người chủ yếu.

XUÂN ƠI! - Thơ Giáng Thu Xưa





     XUÂN ƠI!

     Xuân lại về sao luôn nhớ đến
     Dư âm ngày đó mãi không thôi
     Tình thơ một thuở câu hò hẹn
     Chẳng thể nào quên bước sánh đôi

     Khoảnh khắc bên nhau hoài lưu luyến
     Niềm thương còn đượm biết bao lời
     Ngút ngàn xuân thắm mai vàng nở
     Gió lạnh hanh về chỉ bóng tôi...

                                  Giáng Thu Xưa
                                     01-28-2018

NGUYỄN KHUYẾN - CHỐNG THAM NHŨNG BẰNG BÀI VĂN SÁCH THI ĐÌNH NỔI TIẾNG


          


Nguyễn Khuyến (1835- 1909) là một nhà thơ cổ điển lớn của dân tộc, là “sư tổ” của nghệ thuật câu đối Việt Nam. Đồng thời ông còn là một nhà “kinh bang tế thế” mẫn tiệp và chính trực. Năm Tân Mùi (1871) trong kỳ thi Đình ở Kinh Đô Huế, Nguyễn Khuyến đỗ Hoàng Giáp Đình Nguyên (Tam Nguyên) với bài văn sách nổi tiếng. Bài văn sách thi Đình ấy là áng văn sắc sảo vạch trần tệ tham nhũng và tâu vua kế sách chống tham nhũng và cải cách hành chính mạnh bạo.

Thứ Sáu, 26 tháng 1, 2018

NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA TÔI... - Thơ Trần Mai Ngân


      
      Nhà thơ Trần Mai Ngân

   NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA TÔI...

   Đèo cao, núi cao
   Sông sâu, biển rộng
   Tôi đi tìm người đàn bà, đi tìm người đàn bà
   Có đôi môi mọng trẻ thơ, đôi môi hồng hồng chỉ biết cười...
   chỉ biết cười ngay cả khi lệ rơi...

   Trời cao vời vợi
   Nhật nguyệt xa xa
   Tôi đi tìm người đàn bà, tìm người đàn bà hôm qua
   Dưới ánh mặt trời da em như tuyết
   Diễm tuyệt, diễm tuyệt... kiêu sa, kiêu sa...

   Đôi chân không mỏi
   Đi khắp ta bà
   Tôi tìm em, tìm em... người đàn bà của tôi
   Thất lạc nơi đâu, nơi đâu...

   Nhịp sống khác màu
   Bắt ta xa nhau
   Tôi đi tìm, đi tìm... bốn bể năm châu
   Em của tôi đâu, em của tôi đâu

   Em ơi ! Em đâu...
   Em ơi ! Em đâu...
   Người đàn bà của tôi... hôm qua, có đôi mắt nâu, đôi mắt rất sầu...
   Em ơi ! Em đâu
   Em ơi ! Em đâu...

                                                                         24-1-2018
                                                                    Trần Mai Ngân

CHU VƯƠNG MIỆN VIẾT VỀ BÀ CHÚA THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG


    

          

 TIỂU SỬ:

Tên thật Nguyễn Văn Thưởng
Bút hiệu khác Phương Hoa Sử
Sinh ngày 21-11-1941 tại Phục Lễ, Thủy Nguyên, Kiến An .
Vào Nam năm 1954.
Từng theo học tại trường Trung Học Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi...
Từ 1962 đến 1966 : Hạ sĩ quan trừ bị ngành truyền tin
Năm 1966 : Giải ngũ - Công chức hành chánh
Đến Hoa Kỳ năm 1984.
Bắt đầu cầm bút từ đầu thập niên 1960, tác phẩm đăng trên nhiều Tạp chí tại Sài Gòn: Thời Nay, Bách Khoa, Văn Học, Tiền Phong...

TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:

Ðêm Ðen Hai Mươi Tuổi (1964)
Tiếng Hát Việt Nam (1965)
Trường Ca Việt Nam (1966)
Phía Mặt Trời Mọc (1968)
Ðất Nước (1987)
Văn Học Dân Gian (1988)
Tác Phẩm, Tác Giả (1988)
Bằng Hữu (1987).

Thứ Năm, 25 tháng 1, 2018

VUÔNG CHIẾU THI NHÂN XƯA NAY - Thơ Chu Vương Miện


    


    VUÔNG CHIẾU THI NHÂN XƯA NAY 

     Bà chúa thơ nôm
     tọa trên gốc cây đề
     trước mặt bày mấy trái mít
     tay trái cầm cái quạt
     tay phải cầm bát bánh trôi nước

     Bà Huyện Thanh Quan
     lễ nghi học sĩ
     ngôì trên đống gạch hoàng thành
     cung miếu triều xưa đổ nát
     bên cạnh là một chiếc lồng
     nhốt con chim quốc ?

     Cụ Hồng Sơn liệp lộ
     đang đứng khóc
     một tay cầm bản văn tế thập loại chúng sinh
     một tay cầm pho bắc hành thi tập

Thứ Ba, 23 tháng 1, 2018

GỌI XUÂN - Thơ Trần Mai Ngân


       
          Nhà thơ Trần Mai Ngân


        GỌI XUÂN

        Ngực trầm hương em đợi 
        Anh về gọi mùa Xuân
        Thắp lên trái tim lạnh
        Buộc sợi tình mong manh...


        Ngực căng đầy thanh tân
        Thổn thức đêm ba mươi
        Bàn tay ai in dấu
        Nhành mai chiết năm xưa

        Ngực trầm hương thở vội
        Yêu dấu ơi sao vừa...
        Xuân non cành lộc biếc
        Ta có mùa Xuân chưa

        Bao lần đã đón đưa
        Chiều Xuân không trở lại
        Em thinh không tình trần
        Đợi anh về gọi Xuân...

                      Trần Mai Ngân
                         22-01-2018

Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018

CÔ NGUYỄN THỊ NHÃ, GIÁO SƯ DẠY VIỆT VĂN TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG - Đoàn Đức


         

CÔ NGUYỄN THỊ NHà
(Dạy Việt Văn lớp Đệ Lục 2 (Lớp 7) và Đệ Tứ 2 (Lớp 9), NK 1961-1964 - Chủ nhiệm lớp Đệ Tứ 2)

Cô giáo thời Đệ Nhất Cấp tôi quý mến nhất là cô Nguyễn Thị Nhã, là người chú tâm huấn luyện học sinh giỏi luật thơ và trở thành người biết phê bình văn học. Năm Đệ Lục, khi dạy thơ Bà Huyện Thanh Quan cô giảng luật thơ Đường Thất ngôn bát cú rất kỹ, cô nói thể thơ gồm bảy chữ tám câu, luật trắc vần bằng và luật bằng vần bằng. Thứ tự câu gồm : Phá đề, thừa đề, thực, luận và kết. Về niêm thì chữ thứ hai câu một niêm với chữ thứ hai câu tám, câu hai niêm với câu ba, câu bốn niêm với năm và câu sáu niêm với bảy, và cùng thanh bằng hay trắc. Về đối thì chỉ đối ở hai câu thực và hai câu luận. Khi đối thì danh từ đối với danh từ, động từ với động từ, trạng từ đối với trạng từ; từ Việt đối vời từ Việt, từ Hán đối với từ Hán; và còn phải đối ý nữa :

     Gác mái ngư ông về viễn phố.
     Gõ sừng mục tử lại cô thôn
           (Chiều Hôm Nhớ Nhà)

LA GI, LAI LỊCH MỘT VÙNG ĐẤT - Phan Chính


              


     LA GI, LAI LỊCH MỘT VÙNG ĐẤT

       La Gi ngày xưa là phần đất nằm dọc bờ sông Dinh có dịch trạm Thuận Phước ở làng Phước Lộc, nằm trong hệ thống dịch trạm dưới triều Nguyễn trung hưng. Địa giới La Gi thời ấy bao trùm phần đất của các phường xã Phước Hội, Phước Lộc, Tân Thiện, Tân Phước, Tân An, Tân Bình, BìnhTân bây giờ… Khi thành lập huyện Hàm Tân (1916) do trụ sở huyện đặt tại làng Hàm Tân (trước đó thuộc tổng Đức Thắng, thổ huyện Tuy Lý- sau sáp nhập và đổi sang phủ Hàm Thuận thống hạt, tỉnh Bình Thuận) nên trở thành tên huyện. Cũng từ đó, lỵ sở huyện Hàm Tân nằm trên địa bàn làng Hàm Tân, tổng Phước Thắng, huyện Hàm Tân (từ năm 1910 đơn vị hành chánh Phủ và Huyện ngang nhau). Huyện Hàm Tân được thành lập gồm 2 tổng Phong Điền và Phước Thắng không còn trực thuộc phủ Hàm Thuận. Tổng Phong Điền có địa giới từ phía tả ngạn sông Dinh kéo dài lên các làng Tam Tân, Hiệp Nghĩa, Phong Điền và Thạnh Mỹ,Văn Kê. Tổng Phước Thắng từ hữu ngạn sông Dinh, gồm các làng Hàm Tân, Phước Lộc (địa bàn La Gi) đến Cù My, Thắng Hải giáp với Xuyên Mộc.

THI PHẨM KINH VÔ THƯỜNG CỦA VÕ THẠNH VĂN


     

Tiểu tự của tác giả nhân ngày hoàn thành CÁT BỤI #10 của toàn bộ thi phẩm KINH VÔ THƯỜNG.

KINH VÔ THƯỜNG là lời kêu thương bi thống của một kiếp nhân sinh bi lụy trong cõi trần bi ai. Đó là lời ca cùng tột bi tráng chứa đựng ngậm ngùi chất ngất đau thương của những tâm hồn vươn lên từ nỗi bi thiết thường hằng.

Từng chữ trong KINH VÔ THƯỜNG là từng bước chân rời rạc rã riêng của hành trình đi vào tâm thức, một tâm thức tuyệt đối cô đơn khép kín riêng tư. Từng chữ, từng lời là những bước chân hành giả trên đường hành hương, ngơ ngác dọ dẫm đi vào tự thức để tìm lại chính mình.

Nhìn lại cho rõ chính mình, cái bản lai diện mục, là nhận diện nỗi bi thương to lớn của kiếp nhân sinh. Nỗi bi thương to lớn ấy chính là con người đã đánh mất bản thể từ lúc chưa sinh. Từ đó, con người hoang mang và miệt mài tìm kiếm chính mình trong huyễn vọng.

Chủ Nhật, 21 tháng 1, 2018

CẢM TÁC ẢNH TRẦN MAI NGÂN - Thơ Châu Thạch


    

     CẢM TÁC ẢNH TRẦN MAI NGÂN

     Em áo đỏ trước cổng chùa sơn đỏ
     Và dưới hoa cũng sắc thắm một màu
     Dáng của người như dáng đứng hàng cau
     Hàn Mạc Tử đã gợi hồn thôn Vỹ

     Em không Huế mà trông như gái Huế
     Biết bao nhiêu duyên dáng đất kinh thành
     Chỉ một nhìn đã biết vạn màu thanh
     Và nếu ngắm nhớ bao nàng công chúa

     Em có cả một tâm hồn tơ lụa
     Kén cho đời dệt mãi vạn ngàn thơ
     Hương cho đời trải thảm dưới trăng mơ
     Tình cho gió bay cao vời mộng ước

     Em còn cả một tâm hồn sông nước
     Đất miền Nam trù phú ruộng phù sa
     Những đàn cò cất cánh giữa bao la
     Em cô gái thơm tho mùi gạo trắng

     Ta quý em với tình yêu của nắng
     Gởi về em trân trọng của người anh
     Không cùng cha nhưng cùng nghĩa trọn lành
     Là tri kỷ, là thơ, là vẻ đẹp!!!

                                                   Châu Thạch