BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn TẠP VĂN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn TẠP VĂN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013

BÙI GIÁNG BÁN CHÁO GÀ - Lê Duy Đoàn


                              
                                     

              BÙI GIÁNG BÁN CHÁO GÀ
                                                  Lê Duy Đoàn

        Câu nói “Việt Nam ta ra ngõ gặp anh hùng” hay “nhiều người ngoại quốc mơ ước sáng ngủ dậy thấy mình là người Việt Nam” được lặp đi lặp lại từ học đường đến các phương tiện truyền thông đại chúng của Việt Nam sau năm 1975. Đã là người Việt mà đứng ngoài ngõ thì có thể đó là anh hùng.  Một nhà thơ nổi tiếng vì tài hoa, trí tuệ nhưng có vẻ bên ngoài thuộc hàng điên ngoại hạng mà vỗ ngực xưng mình là anh hùng thì đó là chuyện lạ vô cùng. Nhưng không sao, ông ấy là người Việt.

Thứ Ba, 11 tháng 6, 2013

KHI CON RA ĐỜI VÀ NỖI MẸ - La Thuỵ, Phạm Tường Đại

     Chiến tranh Việt Nam đã lùi xa mấy mươi năm rồi, nhưng trong tâm thức của những người từng sống qua cuộc chiến như vẫn còn in hằn bao vết đau nhức nhối. Nhà thơ Phạm Tường Đại (hội viên VHNT Bình Thuận) - hồi còn sinh tiền, tuy đã gần tuổi 80, nhưng luôn lạc quan yêu đời, thế mà trong thơ ông vẫn vương mang nỗi buồn chiến cuộc. Xin mời đọc bài thơ "KHI CON RA ĐỜI" của Phạm Tường Đại qua cảm nhận của La Thuỵ 

                   
                    Nhà thơ Phạm Tường Đại  
                          (1930 - 2008)
                                                                                                                               
       KHI CON RA ĐỜI VÀ NỖI MẸ

                   “Đau đớn thay phận đàn bà”

      Câu thơ Kiều như tiếng thở dài trầm uất, bất chợt hiện ra đè nặng cảm xúc tôi, lúc mới thoạt đọc bài thơ “Khi con ra đời” của nhà thơ, nhà giáo kỳ cựu Phạm Tường Đại - đăng trên tuyển tập Văn nghệ Hàm Tân số tháng 7/1997 ( sau đó đăng trên VĂN NGHỆ BÌNH THUẬN ).
        Lẽ ra sau những tháng ngày hoài thai mong đợi, đứa trẻ ra đời ắt hẳn phải là niềm vui vỡ òa cho người sản phụ. Thế nhưng ngay từ khổ thơ đầu, ta chỉ thấy sóng lòng cuộn dâng của một niềm đau mênh mang biển thẳm, cùng từng suối nước mắt ắp chứa sông đầy, qua “nỗi mẹ” hằng đêm. Trong khi bóng dáng người chồng - người cha lại biệt vô âm tín.

                      Khi con ra đời
                      Biển chập chùng sóng vỗ
                      Mây chiều nhuốm sắc da cam
                      Và dòng sông đựng đầy nước mắt
                      Chảy vào nỗi mẹ đêm đêm 
  

Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2013

THƠ VẬN VÀO NGƯỜI - Lê Duy Đoàn

         Ngoài một số bài viết như ĐI TÌM NHÀNH HOA THẠCH THẢO, BÚN BÒ HUẾ CHẲNG CÒN NHƯ XƯA, ....  đã đăng tải, hoạ sĩ Lê Duy Đoàn cũng gửi email chia sẻ thêm cùng chúng tôi một số bài viết của anh.  Xin giới thiệu bài viết mới của Lê Duy Đoàn


                                               
                                                       Tác giả Lê Duy Đoàn


                          THƠ VẬN VÀO NGƯỜI  -  Lê Duy Đoàn



            Phan lãng tử và Trần tu sĩ là đôi bạn chí thân, ăn một mâm nằm một chiếu từ khi còn là học sinh ở Huế trước năm 75. Họ là những học sinh giỏi, năng động, tự lập và có nhiều hoạt động trong sáng và tích cực trong xã hội . Dù một người là kẻ tu hành đang mặc áo nâu sòng ở chùa Vạn Phước và một người còn nhỏ mà có máu lang bạt kỳ hồ , họ vẫn rất thân thiết. Kẻ tu hành vẫn mô Phật và nói lời đạo hạnh nhưng khi nghe chàng lãng tử rủ lên đồi nhậu nhẹt thì kẻ tu hành cũng sẳn sàng “ngụy trang kiểu Úc” ngồi sau xe gắn máy Goebel lên đó rỉ rả nhậu chơi quên đời.



Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013

CA KHÚC PHỔ NHẠC TỪ THƠ - Nguyễn Khắc Phước



   Nguồn :  http://chumkhechua.blogspot.com/

Cần ghi rõ tên thi sĩ vào audio, video hoặc lời nhạc nếu đó là ca khúc phổ nhạc từ thơ



Ca khúc LỜI RÊU do nhạc sĩ Phú Quang sáng tác là một ca khúc phổ một bài thơ buồn da diết tựa như lời trối trăn của một người sắp bỏ trần gian ra đi trong tuyệt vọng. Tuy nhiên giai điệu của Phú Quang không làm cho lời ca thêm thảm thiết, tuyệt vọng mà chỉ là một lời thở than nhẹ nhàng khiến người nghe không cảm thấy buồn nặng nề, trái lại bay bổng thoải mái, thoát vòng hệ lụy để tan vào hư vô.


Thứ Hai, 7 tháng 1, 2013

ĐI TÌM NHÀNH HOA THẠCH THẢO - Lê Duy Đoàn


              

                    ĐI TÌM NHÀNH HOA THẠCH THẢO
                                                               Lê Duy Đoàn


 Những người có chút máu văn nghệ một lúc nào đó nổi hứng, thường buột miệng hát đôi câu vu vơ. Những câu hát nằm trong bộ nhớ có khi chỉ là một đoạn của bài hát. Khúc đầu ,khúc giữa, khúc đuôi, khúc nào cũng được,tự nhiên bật ra như radio bắt được tần số dò đài,những bài hát cóp nhặt trên dòng đời một cách có ý hay vô tình nghe đâu đó thỉnh thoảng được hát nho nhỏ như thế..
  Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo, Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi… 
 Đó là câu hát tôi thường nghêu ngao nhất, có lẻ vì không gian đượm buồn nhè nhẹ của lời bài hát, mà cũng vì trong câu hát có tên một loài hoa gây ấn tượng vì vẻ huyền hoặc của nó.
 Có lẻ với người Tây phương, người ta biết ngay hoa thạch thảo là hoa gì, một cái gì thấy được, ngắt được,thậm chí ngữi được mùi hoa ngát hương của nó. Trừ những người đã đi Tây và có quan tâm tìm hiểu thì còn có thể biết chứ phần nhiều người Việt chúng ta thật ra đọc thì đọc, hát thì hát chứ chẳng biết hoa thạch thảo là hoa gì, mặt mũi vóc dáng ra sao ?!?

Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2012

ĐỐI THOẠI VỚI CAO TIỆM LY - Nguyễn Khắc Phước


     


         ĐỐI THOẠI VỚI CAO TIỆM LY

Ê này, Cao Tiệm Ly! Đi đâu mà vội. Ghé vào chùa, ta sẽ thết ngươi một bữa cơm chay.
Tai sao ta nhận ra ngươi, chút nữa ta nói, còn ta là người chèo thuyền đưa Kinh Kha sang sông Dịch Thuỷ. Ta tưởng các người thầm lặng tiển đưa trong bí mật , hoá ra lại rượu thịt, ca hát rình rang. Ta biết các người chẳng coi ai ra gì trong thiên hạ nhưng khinh địch bao giờ cũng khó thành công.


Thứ Hai, 17 tháng 12, 2012

LÀNG QUÊ CỦA NGUYỄN ĐỨC TÙNG, NHỮNG CÂU THƠ IM LỜI - Lê Vũ


       
                    Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng


LÀNG  QUÊ
           
Khi anh trở về                   
Người vợ đã chết                   

Vết máu khô trên ngực                     
Trong bụi tre cú rúc liên hồi                     

Tiếng thứ nhất: anh không nghe                   
Tiếng lần thứ hai: anh dừng lại                   
Tiếng thứ ba: anh lờ mờ nhận ra                   

Anh đặt thang thuốc bắc lên thềm nhà                   
Cúi đầu, lùi lại                  

Rồi nhổ sào                   
Rời bến.

                                     Nguyễn Đức Tùng


Không! Những câu thơ chẳng phán bảo loan truyền thông điệp gì cả. Thơ là thơ và vọng âm cứ bằng bặt im lời trong chiều muộn đêm trăng xế.

Một bậc cửa, vết máu khô, tiếng cú rúc. Chữ không trau chuốt đẹp, hình không lóng lánh sắc màu và thanh âm chẳng hề dịu ngọt. Thơ là đời và cuộc sống bừng hiện, dừng lại trong những khoảnh khắc đậm đặc nhất của tuyệt vọng, nỗi chết, của chia ly tàn mục. Ngọn sào nhổ lên, thuyền rời bến và cuộc sống cứ chảy đi trên dòng thời gian bất tuyệt. Không thể khác. Người sống phải sống và người chết cũng đã chết rồi.

Thơ còn là người. Đã tràn lan những câu thơ nôn thốc nôn tháo kinh nguyệt và đờm dãi khoe mông má thịt đùi chỉ để bày biện cái libido, cũng ê hề đây đó những tụng ca sáo rỗng. Lý Bạch “cúi đầu nhớ cố hương”; còn anh cúi đầu như một mặc niệm, một nhớ thương. Tôi nghĩ, thơ là nhan sắc và người cần có diện mạo. Diện mạo đó, trước hết, là diện mạo của văn hóa Việt. Thang thuốc bắc, ở đây, dù không còn tác dụng gì, vẫn là nghĩa tình chồng vợ đậm chất Đông Phương, giàu tính Việt.

Nhưng “Làng quê” của Nguyễn Đức Tùng ám ảnh ám thị tôi, không phải vì câu chuyện sinh lão bệnh tử mà vì thanh âm của tiếng đêm cú rúc. Rờn rợn, khàn đục, the thắt. Và không phải vô tình, nó lặp lại đến ba lần. “Quá tam ba bận”. Vâng! Có là người hoài nghi chủ nghĩa cũng phải tự khẳng định: cuộc sống không chỉ có ríu rít xuân ca. Nó trăm ngàn the thía mùi vị đấy! Đối mặt với nó và sống!

“Làng quê” vỏn vẹn 11 câu thơ nhưng từng con chữ nén lại, giấu một tiếng thở dài, chưng cất một nỗi đau và đặc biệt, trong chừng mực, đã hóa giải tâm thế vực ngờ của người đương đại.

                                                                                         Lê  Vũ 
                                                                                       (Sài Gòn)                                                                                   

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

TẢN MẠN CÙNG "CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN" - Đoàn Anh Kiệt


            
                       Tác giả Đoàn Anh Kiệt
                    (Con trai út blogger Phú Đoàn)


     Tới giờ mới viết về phim Cánh Đồng Bất Tận quả thật đúng là … người lỗi thời! Nhưng mà tôi vốn là người xem phim cũ không chán, không ngại và không sợ! Hehe
Đọc nhiều bàn luận, chê khen trên mạng, có cả những người bạn mình quen, rồi tất nhiên giống như những phim khác, trên mạng chắc chắn sẽ có bản phim, tôi coi phần nhiều là vì tò mò, thứ nữa là tôi thích giọng văn của chị Nguyễn Ngọc Tư, chất phác, mộc mạc mà không quê mùa!

Thứ Hai, 20 tháng 8, 2012

BÓNG THIÊN ĐƯỜNG CUỐI TRỜI THÊNH THANG

     Cháu Đoàn Minh Tuấn - thứ nam của vợ chồng chúng tôi, bất ngờ vĩnh biệt cõi thế sau tai nạn giao thông đầy thương tâm. Gia đình chúng tôi quá đỗi bàng hoàng sững sốt và vô cùng đau xót khi cáo phó cho thân bằng quyến hữu, đồng nghiệp, đồng môn, cộng đồng giáo xứ, thi văn hữu xa gần... 
      Cháu Tuấn đột ngột ly trần để lại niềm đau cùng nỗi thương nhớ dâng đầy cho gia đình chúng tôi: Cha mẹ phải bàng hoàng đứt ruột khi lìa xa người con trai yêu dấu đang còn phơi phới tuổi thanh xuân. “Lá xanh rụng xuống, lá vàng trên cây”, ai oán  làm sao! 
      Anh em ruột thịt, người chị dâu… trong phút chốc bất ngờ, phải nghìn thu vĩnh biệt người anh, người em trai dễ tính, tốt bụng, sống chan hoà cùng mọi người. Cu Bin - cháu trai đang còn tuổi măng sữa cứ bập bẹ nhắc tên người chú ruột yêu dấu thường bồng bế vỗ về chăm sóc cháu.
      Bà con thân tộc xót xa nhỏ lệ thương tưởng người cháu, người anh, người em,… biết sống hiếu thuận, kính trên nhường dưới của họ sớm phải bạc mệnh khi tuổi đời còn trẻ - cái tuổi 30 phơi phới, sung sức đang độ chín, với bao ước vọng tươi hồng đang ấp ủ đành dang dỡ !
     Bạn bè buồn bã ngậm ngùi chia tay với người bạn tốt bụng sống hết mình cho tình thân hữu. Hàng xóm xót xa thương tiếc người láng giềng trẻ sống hoà đồng, cởi mở cùng mọi người phút chốc bỗng lìa xa dương thế.
      Chú Đoàn Minh Lợi đã bày tỏ lòng thương tưởng người cháu ruột của mình qua bài viết sau:


                  

             BÓNG THIÊN  ĐƯỜNG CUỐI TRỜI THÊNH THANG

           Tuấn ơi,
          Khi chú viết những dòng này cháu đã nằm dưới lòng đất lạnh. Nhưng chú tin linh hồn cháu đang tới cửa thiên đường. Người phàm thì chẳng thể thấy được thiên đường và thiên đường có tồn tại hay không luôn là dấu hỏi to tướng. Chú là người tin vào đời sống tâm linh, tin  con người có linh hồn. Vì vậy chú tin rằng sau khi linh hồn lìa khỏi thể xác, vẫn con một cõi nào đó cho linh hồn trú ngụ. Cõi đó có thể là cõi trời, cõi thiên đàng, là niết bàn, hay miền tây phương cực lạc... Chắc chắn là có một nơi chốn trong những cõi đó, mà cũng có khi tất cả những chốn đó chỉ là một.
        Trong kinh thánh chúa Ki Tô có nói phúc cho những ai không thấy mà tin. Chúa lại nói phúc cho những ai khốn khó trong linh hồn, vì nước trời là của họ. Chú là người không theo đạo, lâu lâu lại ngang ngang như... em Kiệt của cháu. Vì vậy cho phép chú cải biên lời của Chúa thành: " Phúc cho kẻ hèn mọn là cái thằng tôi đang viết những dòng này vì tin rằng nước trời là của cháu tôi, Phao Lồ  Đoàn Minh Tuấn."  Câu cải biên này chia ở thì hiện tại y như thì của hai câu thánh kinh bằng tiếng Latinh vừa trích dẫn.
        Ở cõi trời cháu thấy chú có đúng không? Cháu được lên trời còn chú thì được hưởng phước. Chú cháu mình đều hưởng lợi. Phật dạy cái gì có lợi cho mình mà cũng lợi cho người thì nên làm. Chú tin lời Phật nói. Vì vậy Phật dạy chú vâng lời.
        Đưa di thể của cháu về quê, lòng chú buồn vô hạn và có khi lẩn thẩn tự hỏi phải chăng cõi trần này quá chật hẹp nên cháu buồn, cháu chán, cháu mới bỏ về trời ?
        Hai ngày cùng cha mẹ cháu lo lễ tang chú lại suy nghĩ khác, rất khác đi nhiều. Này nhé, để chú kể cho cháu nghe nhé:
        23h45' đêm 14 tháng tám cô Hoa gọi điện cho chú báo tin cháu mất. Giọng cô nghẹn ngào và đau đớn, điện thoại rơi và máy tắt. Hay tin, chú hốt hoảng rụng rời. Thím Sửu và em Hà biết tin ngồi khóc. Chú Vững đến nhà tang lễ An Bình và khóc suốt đêm. Cô Lan cũng đau đớn khóc không kém. Khi chú báo tin cho cô Vinh và cho cô biết chú đang chạy xuống nhà cháu. Cô Vinh lấy bụng mình mà đo bụng chú. Cô dặn chú chú chạy xe chậm và chạy cẩn thận. Cô sợ lòng chú bấn loạn nên đi đường dễ bị tai nạn. Đến nhà cháu khoảng 24h đêm, nhà cửa lặng im, mẹ cháu một góc và ba cháu một góc, buồn và im lặng không biết phải làm gì. Buồn như giọt máu lặng lẽ nơi này. Ở bên kia nước Mĩ, em Nhi gọi điện về giọng thảng thốt có phải anh Tuấn mất thiệt không ba. Nhi gọi điện vào lúc cả điện thoai của chú và điện thoại thím Sửu hết pin vì liên lạc qúa nhiều. Anh Khanh, em Kiệt, chị Mây của cháu cứ tự trách phải chi trước đó làm cái này, làm cái kia thì cháu đâu bị tai nạn như vậy. Người thân thích ruột thịt của cháu cứ làm như tai nạn cháu gặp này là lỗi của mình.
       Cháu thấy đó cả nhà ai cũng yêu mến cháu. Cha mẹ, anh em ruột, cô, chú ruột, anh em cô cậu, chú bác ruột đều yêu mến cháu hết. Đó là chú chưa kể các bà con khác nữa như chú Bảo ở nguyên đêm tại nhà tang lễ An Bình (quận Tân Phú - TP. HCM) với anh Khanh và chú Vững. Gần sáng Bác Lành cũng đến thăm cháu, rồi nhiều người thân nữa...
         Được gia đình yêu thương như vậy làm sao mà cõi trần này chật hẹp và buồn chán cho được?
        Nhã Trúc, bạn gái cháu thời xưa đang ở Mĩ đã khóc hết nước mắt khi nghe tin cháu mất. Mây đen vần vũ bầu trời Cali. 18h chiều ngày 16 tháng 8, Quỳnh - một bạn gái nữa của cháu từ Sài gòn lặn lội thuê xe ra để thắp nhang cho cháu. Thắp xong lại lên đường về ngay. Nước mắt và nỗi buồn của Quỳnh có thể làm tím cả trời chiều thành phố. Chú e rằng tím cả những chiều sau đó nữa. Giờ hạ huyệt, Thanh Trang - một bạn gái học cùng lớp thời cấp II của cháu lặng lẽ thổn thức khóc. Huyệt vừa lấp đất, bạn lặng lẽ ra về, một mình. Ừ, chú  thấy.ra về chỉ một mình và lặng lẽ.
         Làm sao mà trần thế này chật hẹp được  khi lòng người rộng mở ??
        Hai đêm cháu yên nghỉ tại nhà ba mẹ cháu. Cháu lắng nghe nhân thế bằng hai tai. Một tai ngoài rạp và một tai trong nhà. Ngoài rạp là bạn bè cháu đến tiễn biệt cháu. Mỗi đêm có chừng 30 bạn đến chia tay, bạn ở công ty Đại Dương có 14 người đến lúc 12h đêm và sáng 4h về thành phố HCM để kịp làm ngày thứ năm.  Bạn học của cháu thì nhiều, đến lai rai suốt ngày và về đêm thì tụ họp khoảng mươi lăm người, thức sáng đêm. Ai cũng khen cháu hiền và dễ mến cả. Bạn bè thì đông, lại có bia, có mồi, có bài 52 lá, có cả cờ tướng nữa. Thế hệ 8X khi chia tay mang niềm vui nhân thế cho bạn làm hành trang lộ phí lên đường đến cõi trời. Cõi trần vui cháu hỉ. Vậy thì sao cháu vội đi ?
      Ở nhà trong cứ 6h đến 10h tối là thay phiên nhau từng tốp, từng tốp khoảng mươi, mười lăm người đến đọc kinh cầu nguyện. Chú ngồi lắng nghe lời nguyện mang máng như thế này: Kiếp người mong manh, thân người từ cất bụi mà thành nên sẽ trở về với cát bụi. Chết không phải là hết, đừng lo sợ. Chết chỉ là chuyển đổi đời sống này sang một đời sống vĩnh hằng hơn nếu có niềm tin và có phẩm hạnh tốt. Nói cháu đừng cười, chú nghe giáo họ La Vang đọc lời chúa Ki Tô mà chú tưởng lời Phật dạy. Này con, đời là vô thường, cõi đời là cõi tạm. Thân này do tứ đại có duyên mà hợp thành. Chết hay chưa chết có khác nhau là mấy. Không tức thị sắc, sắc tức thị không. Nếu con dẹp được tham sân si, không còn sợ  hãi, nếu tâm con vô quái ngại thì con... nhập niết bàn.
      Chú biết, Chúa là Chúa mà Phật là Phật. Tư tưởng của hai tôn giáo không như nhau. Nhưng ở thời khắc đất trời giao hoà đó chú thấy điểm gặp nhau của hai cội nguồn bầu sữa của nhân loại.
       Khi đưa cháu từ nhà thờ ra nghĩa trang. Chú lại nhớ Ỷ thiên Đồ long kí của Kim Dung : "Sống có gì vui, chết có gì khổ, bao hỉ lạc bi sầu, đều trở thành cát bụi, thương thay cho con người, sao lo buồn lắm vậy?"  Lời kinh giáo chúng Minh giáo và giáo chúng Bạch Mi giáo  đọc trên Quang Minh Đỉnh có khác gì lời Chúa, lời Phật? Chú cháu mình là con trai Đoàn tộc, phái Nhâm, chi Thượng, mê kiếm hiệp là yếu tố  truyền tông.
       Đi ngang qua nhà chú, bỗng nhiên cháu rắc hoa. Cả đoàn xe dừng chừng ba phút. Chú hiểu, cháu nói lời chia tay. "Những hẹn hò từ nay khép lại, thân nhẹ nhàng bay lên. Có nụ hồng ngày xưa rớt lại, bên cạnh đời tôi đây". Ừ, thì chú cháu mình chia tay. Cháu đến cuộc đời này ba mươi năm. Còn chú sinh ra ở vai trên, chú sinh trước cháu những hai mươi ba năm. Nên chú làm chú, mà cháu làm cháu. Ba mươi năm chú cháu mình bồng bềnh bình thuỷ tương phùng. Giờ thì chia tay.
       Và đột nhiên chú hiểu. Cuộc đời đẹp, lòng người rộng mở, cháu đã đến cuộc đời này và đã sống hết mình, sống chan hoà, vui vẻ với nụ cười trên môi. Đến giờ cháu phải đi. Cháu chào cuộc đời bằng nụ cười. Nụ cười mà ba cháu thấy, chú thấy, anh Khanh thấy, em Kiệt cũng thấy. Một nụ cười thật tươi với khuôn mặt an nhiên.
      Vậy thì lên đường cháu nhé. Chú mắt phàm không thấy cổng thiên đường, chỉ thấy bóng dáng thiên đường. Chú mượn nhạc Trịnh công Sơn tiễn cháu đi. "Xin cho một người vừa nằm xuống, thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang".
                                                                                         
                                 Thị xã La Gi, 22h  ngày 17  tháng 8 năm 2012
                                                             Chú Lợi