BÂNG KHUÂNG
Thứ Ba, 10 tháng 1, 2017
Thứ Hai, 9 tháng 1, 2017
LA THỤY: TÁC PHẨM TÁC GIẢ - M.Loan Hoa Sử & Chu Vương Miện thực hiện.
Bút hiệu : LA THUỴ
Tên thật : Đoàn Minh Phú
Nghề nghiệp: Dạy học (vừa nghỉ hưu)
Hội viên Hội VHNT Bình Thuận.
Tác phẩm đã in: Thơ Đời Ngân Vọng – NXB Văn Học 2014
Những tác phẩm đã in chung:
Tác Giả Thơ Việt Nam Đương Đại – NXB Thanh
niên 2009 – Hoàng Hương Trang chủ biên
Những Bài Thơ Hay Và Lạ Xưa Và Nay (tập II)
–NXB Văn Nghệ 2009 –Long Nguyên Trương Quang Nguyên chủ biên
Những Bài Thơ Hay Và Lạ Xưa Và Nay (tập III)
–NXB Văn Nghệ 2010 –Long Nguyên Trương Quang Nguyên chủ biên
Thơ Hay Ba Miền – NXB Văn Học 2008 do BBT Thơ
Hay Ba Miền chủ biên
In chung trong nhiều tuyển tập thơ khác
LA THỤY: TÁC PHẨM TÁC GIẢ
M.Loan Hoa Sử &Chu Vương Miện thực hiện.
Nói tới Quảng Trị là nói tới cái sự Kim Kiếm Điêu Linh vô cùng vĩ đại và gian khổ, sau cái Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 thì bà con ngoài Miềng ai còn sống sót thì lặng lẽ ra đi, kẻ tạm cư ở Sơn Chà (bãi biển Mỹ Khê trong Đà Nẵng) kế đến năm 1973 thì theo đoàn khai hoang lập ấp ở Hàm Tân Bình Tuy [ Phan Thiết Bình Thuận bây giờ ], người thì đi lên Di Linh Lâm Đồng Bảo Lộc, kẻ thì đi thẳng tới Phước Hải, Phước Tuy Bà Rịa , rồi Biên Hòa Đồng Nai, sau 1975 thì đi lên cả Buôn Mê Thuột, Gia Lai, Kon Tum, người thì đi Kinh Tế Mới Cà Tum, Đồng Ban, tỉnh Tây Ninh, y chang thơ của nhà thơ Vĩ Đại Hạc Thành Hoa :
Năm ngón chân phía trước
không ngón nào phía sau ?
sao có người xuôi ngược
suốt một đời lao đao ?
Ở chốn quê hương mới Lagi Hàm Tân này, có hai người là đồng môn đồng khoai (cùng trường), đồng hương đồng khói (cùng làng) với người viết bài này là Trần Minh Tạc cùng lớp, năm đệ ngũ niên khóa 1956-1957 tốt nghiệp ngành Sư Phạm Giáo Hòn, còn nhà thơ La Thụy thì sau 1975 tốt nghiệp thành Giáo Viên, bây giờ sống gọi là Thầy Giáo , mơi mốt thác thành Ma Giáo... Phan Thiết "Bình Thuận" tên cũ của đế quốc Champa là Panduranga thành lũy cuối cùng của dân tộc Chăm, nơi mà quy tụ tất cả các thân vương quý tộc của 4 dòng họ vua Ung Ma Trà Chế để chơi ván bài chót với người bạn kết nghĩa láng giềng là Đại Việt, ôi Lịch Sử cũng chả nên phê phán mà làm cái gì ? cũng chỉ bắt chước nhà Nho Ngô Thời Nhiệm than lên rằng thì là :"gặp thời thế, thế thời, phải thế ?"
Và thơ của nhà thơ Đương Đại La Thụy viết cái gì ?
Lâng lâng tình đang lên khơi
Hồ xừ xang lòng chơi vơi canh dài
(Hồ Cầm)
Chồn chân dừng bước bên cầu
lặng nhìn nước chảy nuối màu tóc xưa
cánh buồm lộng gió ước mơ
băng qua sông biển cập bờ nơi nao?
(Tự cảm cuối năm)
Nghiêng chiều rót mãi thơ buồn rụng
dốc nắng hứng hoài mộng đẹp qua
chếnh choáng mạch sầu càng ứ đọng
hoàng hôn bảng lảng chạnh lòng ta.
(Chạnh lòng)
M.Loan Hoa Sử &Chu Vương Miện thực hiện.
Nói tới Quảng Trị là nói tới cái sự Kim Kiếm Điêu Linh vô cùng vĩ đại và gian khổ, sau cái Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 thì bà con ngoài Miềng ai còn sống sót thì lặng lẽ ra đi, kẻ tạm cư ở Sơn Chà (bãi biển Mỹ Khê trong Đà Nẵng) kế đến năm 1973 thì theo đoàn khai hoang lập ấp ở Hàm Tân Bình Tuy [ Phan Thiết Bình Thuận bây giờ ], người thì đi lên Di Linh Lâm Đồng Bảo Lộc, kẻ thì đi thẳng tới Phước Hải, Phước Tuy Bà Rịa , rồi Biên Hòa Đồng Nai, sau 1975 thì đi lên cả Buôn Mê Thuột, Gia Lai, Kon Tum, người thì đi Kinh Tế Mới Cà Tum, Đồng Ban, tỉnh Tây Ninh, y chang thơ của nhà thơ Vĩ Đại Hạc Thành Hoa :
Năm ngón chân phía trước
không ngón nào phía sau ?
sao có người xuôi ngược
suốt một đời lao đao ?
Ở chốn quê hương mới Lagi Hàm Tân này, có hai người là đồng môn đồng khoai (cùng trường), đồng hương đồng khói (cùng làng) với người viết bài này là Trần Minh Tạc cùng lớp, năm đệ ngũ niên khóa 1956-1957 tốt nghiệp ngành Sư Phạm Giáo Hòn, còn nhà thơ La Thụy thì sau 1975 tốt nghiệp thành Giáo Viên, bây giờ sống gọi là Thầy Giáo , mơi mốt thác thành Ma Giáo... Phan Thiết "Bình Thuận" tên cũ của đế quốc Champa là Panduranga thành lũy cuối cùng của dân tộc Chăm, nơi mà quy tụ tất cả các thân vương quý tộc của 4 dòng họ vua Ung Ma Trà Chế để chơi ván bài chót với người bạn kết nghĩa láng giềng là Đại Việt, ôi Lịch Sử cũng chả nên phê phán mà làm cái gì ? cũng chỉ bắt chước nhà Nho Ngô Thời Nhiệm than lên rằng thì là :"gặp thời thế, thế thời, phải thế ?"
Và thơ của nhà thơ Đương Đại La Thụy viết cái gì ?
Lâng lâng tình đang lên khơi
Hồ xừ xang lòng chơi vơi canh dài
(Hồ Cầm)
Chồn chân dừng bước bên cầu
lặng nhìn nước chảy nuối màu tóc xưa
cánh buồm lộng gió ước mơ
băng qua sông biển cập bờ nơi nao?
(Tự cảm cuối năm)
Nghiêng chiều rót mãi thơ buồn rụng
dốc nắng hứng hoài mộng đẹp qua
chếnh choáng mạch sầu càng ứ đọng
hoàng hôn bảng lảng chạnh lòng ta.
(Chạnh lòng)
Chủ Nhật, 8 tháng 1, 2017
Thứ Bảy, 7 tháng 1, 2017
MỘT TRƯƠNG - Tạp bút của Chu Vương Miện
MỘT TRƯƠNG
"Trích trong Vĩ Văn"
Trong nguyệt san Kiến
Thức Ngày Nay, khi không xuất hiện một bài biên khảo ký tên là Phan Khắc Khoan,
nội dung là tiên sinh phát hiện ra rằng hai câu Kiều của Nguyễn Du :
Cung thương lầu bậc ngũ
âm (câu 29)
Nghề riêng ăn đứt Hồ Cầm
một chương (câu 30)
Theo ý của tiên sinh
Phan Khắc Khoan san định Văn Học thỉ câu thứ ba mươi phải là "Một
Trương", vì bên Trung Quốc có một vị nhạc sư tên là Trương (con thứ nhất)
nên thiên hạ mến mộ tài năng thường gọi là Một Trương, người này chuyên trị Hồ
Cầm, thuộc vào loại danh sư số một .
"kỳ sau đăng
tiếp"
Rồi không thấy bài của
tiên sinh đăng tiếp nữa, để xem Mr Một Trương là nhân vật như thế nào ? Sống
vào thời nào ? mà chỉ thấy bài của học giả An Chi… đánh phủ đầu, sau đó thì
tiên sinh Phan Khắc Khoan đương sống "chuyển qua từ trần", thành ra
công trình phát hiện san định Văn Học đến đây là un point final. Cũng tưởng
nhắc qua chút đỉnh về thi sĩ Phan Khắc Khoan, tiên sinh sinh vào khoảng juin
1916 ở làng Yên Lãng, Yên Thành (Nghệ An). Mồ côi mẹ từ thủa bé, năm 15 tuổi
thì cha bị mù. Học trường Huyện, Trường Vinh có bằng Thành Chung, đã đăng thơ ở
Phong Hóa (ký Chàng Trương), Thế Giới, Tri Tân thơ ký Hồng Chương, ngoài ra con
vài vở kịch thơ nổi tiếng như Phạm Thái và Trần Can… (phần tiểu sử trích đoạn
trong Thi Nhân Việt nam của Hoài Thanh và Hoài Chân)
Thứ Ba, 3 tháng 1, 2017
CHÙM THƠ CHU VƯƠNG MIỆN
Tác giả Chu Vương Miện
ĐOẢN CÚ
lọt lòng đã khổ rồi
cùng một dòng sông
bên lở bên bồi
cùng một kiếp ngườì
kẻ ăn cơm
ngươì ăn xôi
Năm cùng và tháng tận
Kiếp trâu bò lao đao
kiếp con người lận đận
ở tù bao nhiêu năm
ở lính bấy nhiêu năm
bèo dạt sáng trôi xuôi
buổi chiều thì về ngược
lê lết ven dòng đời
Ôi tháng tận năm cùng
hết mùa thì tới tết
quanh năm thì thiếu ăn
bốn muà thì lũ lụt
Ôi làm cái kiếp người
Sao mà càng thấm mệt ?
Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2016
CHÙM THƠ CHU VƯƠNG MIỆN
Nhà thơ Chu Vương Miện
NGỰA GIÀ
Thấm thoát con ngựa ngày xưa
giờ cũng sống đến 76 năm
suốt đời từ lúc sinh ra
và lớn lên
toàn kéo xe thổ mộ
người xà ích này chết
thì giao cho người xà ích khác
chạy từ bãi trưóc
qua Ô Quắn về bãi sau
đi qua vườn dâu
về bãi trước
trên đầu một chùm lông gà
dưới cổ một chùm lục lạc
phiá trước mõm là chùm cỏ non
cứ nhìn mà phấn khởi
tiến lên
chạy quanh năm suốt tháng
Hai mắt bị che
Sau lưng kéo theo
Toàn là danh từ
"Quê hương - dân tộc - lịch sử -
đạo làm cái con người"
lâu lâu ngoảnh đầu nhìn lại
"toàn là những khôi hài ?"
Thứ Năm, 22 tháng 12, 2016
CẬN LỤC CHÂU Ô - Thơ Chu Vương Miện
Kính gửi Các Niên Trưởng Trường Nguyễn Hoàng, Lê Hưũ Thăng, Tuệ Chương Hoàng Long Hải, Hoàng văn Liệu, Phạm thị Như Hoàn...
(Chu Vương Miện)
CẬN LỤC CHÂU Ô
Chuá Nguyễn Hoàng ngày xưa
Từ Nghệ An vào Ái Tử
Còn bây chừ chúng ta từ đó lại ra đi
Ca sĩ tài hoa Duy Khánh
Thác từ hơn 10 năm trưóc
Hoàng Thi Thơ cũng cành trúc trăng tà
Thôi kiếp này tình miềng đành xa ngái
Nơi xứ ngườì nhớ mãi mãi Bích La
Ôi đông và tây cũng cận kề Bồ Bản
Như Hoàn ơi ! Chi theo bóng sương mờ
Thôi bốn tỉnh miền Trung cát vàng cát trắng
Sừng sững núi Hồng, bãi muối sông La
Cá chết tiệt dạt vào bờ Nam Hải
Hận muôn đời hai chữ Fomosa
Hết vẩn đục môi trường
Qua thiên tai lũ lụt
Miền Trung nghèo xơ xác lại tan hoang
Nơi ngập lúa cánh đồng ngang với biển
Chả còn chi ? (ngoài thi phẩm Điêu Tàn)
Gió đưa cành trúc la đà
Hồi chuông Sắc Tứ canh gà Tri Bưu
Lõ hai mắt thị xã cùng thành cổ
Cũng tan ra theo cát miệt Nhan Biều
Mấy mươi năm xưa Phạm Duy soạn
Bài ca Bà Mẹ Gio Linh
Năm 1972 nhà văn Phan Nhật Nam
Soạn Đại Lộ Kinh Hoàng
Ôi lũ lụt mưa bão
Xoá phăng làng chài Mỵ Thủy
Ta nơi này đứng khóc nước cùng non ?
Ơi người xưa còn gia gia cuốc cuốc
Chừ nơi đây đôi mắt đã mòn ?
Chu Vương Miện
(Chu Vương Miện)
CẬN LỤC CHÂU Ô
Chuá Nguyễn Hoàng ngày xưa
Từ Nghệ An vào Ái Tử
Còn bây chừ chúng ta từ đó lại ra đi
Ca sĩ tài hoa Duy Khánh
Thác từ hơn 10 năm trưóc
Hoàng Thi Thơ cũng cành trúc trăng tà
Thôi kiếp này tình miềng đành xa ngái
Nơi xứ ngườì nhớ mãi mãi Bích La
Ôi đông và tây cũng cận kề Bồ Bản
Như Hoàn ơi ! Chi theo bóng sương mờ
Thôi bốn tỉnh miền Trung cát vàng cát trắng
Sừng sững núi Hồng, bãi muối sông La
Cá chết tiệt dạt vào bờ Nam Hải
Hận muôn đời hai chữ Fomosa
Hết vẩn đục môi trường
Qua thiên tai lũ lụt
Miền Trung nghèo xơ xác lại tan hoang
Nơi ngập lúa cánh đồng ngang với biển
Chả còn chi ? (ngoài thi phẩm Điêu Tàn)
Gió đưa cành trúc la đà
Hồi chuông Sắc Tứ canh gà Tri Bưu
Lõ hai mắt thị xã cùng thành cổ
Cũng tan ra theo cát miệt Nhan Biều
Mấy mươi năm xưa Phạm Duy soạn
Bài ca Bà Mẹ Gio Linh
Năm 1972 nhà văn Phan Nhật Nam
Soạn Đại Lộ Kinh Hoàng
Ôi lũ lụt mưa bão
Xoá phăng làng chài Mỵ Thủy
Ta nơi này đứng khóc nước cùng non ?
Ơi người xưa còn gia gia cuốc cuốc
Chừ nơi đây đôi mắt đã mòn ?
Chu Vương Miện
Thứ Tư, 21 tháng 12, 2016
CHU VƯƠNG MIỆN, THƠ VỚI CUỘC CHƠI LOANH QUANH GIỮA CHỢ - Luân Hoán
Nguồn: http://www.luanhoan.net/tacpham/DHBB_web/ChuVuongMien.htm
Không hiểu tại sao vào những năm 1957, 1958, tôi không có dịp gặp nhà thơ Chu Vương Miện, lù lù ở Đà Nẵng, làm học trò đệ tứ trường Bán công ? Trong niên khóa này, tôi là anh Đệ ngũ 3 trường Phan Châu Trinh, không cách xa trường Bán công bao nhiêu. Thắc mắc cho vui vậy, chứ làm sao mà biết nhau, khi cả hai thằng đều là những thứ vô danh trong cổng trường, không tham gia tích cực thể thao hay văn nghệ. Cũng chưa nhóm được mối tình trai gái nào xuất sắc, đủ có tiếng vang trong giới thư sinh.
Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2016
RƯỢU DƯỚI TRĂNG - Thơ Châu Thạch
RƯỢU DƯỚI TRĂNG
(Gởi các người thơ nam uống rượu mà tôi cảm mến:
Kha Tiệm Ly, Hoàng Anh 79, La Thụy, Đặng Xuân Xuyến)
Dốc ngược chai, rượu long lanh chảy
Ta nâng ly uống cạn cả ngàn trăng
Khà một cái hơi bay mờ mặt đất
Còn một trăng treo mộng ở trên cao.
Em ngồi lại cùng ta đừng đi vội
Nửa vầng trăng ta đã cắn làm đôi
Nghe vị ổi vừa chua và vừa chát
Trong miệng ta nguyệt đã vỡ tan rồi.
Đừng, đừng bảo ta say là tăm tối
Linh hồn ta trôi nổi rượu, trăng, thơ
Những đam mê đắm đuối tự bao giờ
Những ân tứ từ khai sinh thế kỷ.
Ở trong ta có ba người mộng mị
Một yêu trăng tràn ngập cả đường tim
Một yêu thơ lặn lội tháng năm tìm
Một yêu rượu lấy men làm tri kỷ.
Ba khờ dại biến ta thành thi sĩ
Thoát hồn ta du nhập cõi mơ huyền
Ngồi dưới trần mộng đến chốn thiên tiên
Rượu trong máu và trăng tràn sông núi.
Em ngồi lại cùng ta thêm chút nữa
Để cơn say đủ độ biến thành thơ
Để lời hay soi tỏ ánh trăng mờ
Và hết thảy gởi vào đôi mắt đẹp.
Em ngồi lại cùng ta thêm chút nữa
Để men yêu dậy sóng phút em chờ
Với rượu nồng, thơ đẹp, với trăng mơ
Ta uống trọn tràn lan cơn cảm xúc
Châu Thạch
Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016
CẢM TÁC THƠ LA THỤY - Đức Hạnh
CẢM TÁC THƠ LA THỤY
Chị hằng thắp sáng vườn khuya
Giọng ngâm La Thụy tình chia khắp miền
Tình yêu ngời nở hoa thiên…
Tình đời buông thả nỗi phiền nhân gian
Hồn thơ ấp áp mặn màng
Hồn người đa cảm vương mang cảnh đời
Dù cho bão tố khắp trời
Phú Đoàn - La Thụy nở lời đẹp sao!
Vườn hoa nhân ái thơm ngào
Biển tình lấp lánh sóng trào ý riêng
Ngẫm trời non nước trao duyên
Buồn đời ô trọc chao nghiêng môi trường…
Nhớ tình nhớ cảnh vấn vương
Tình yêu, nở mộng mến thương nào lìa
Nguồn thơ hòa với trăng khuya
Nghe hồn ấm áp... Trông kìa nàng xuân…
Đức Hạnh
Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2016
THUẬT HOÀI - Thơ La Thụy
THUẬT HOÀI
(Cùng LMV một ngày say, phiêu bồng )
“Sao anh trợn mắt nhìn tôi”
Gớm sao thô lố như lồi võng mô
Có chăng ngôn ngữ hồ đồ
Bâng khâng tửu vị hư vô thấm tràn
Cho hồn một thoáng đi hoang
Bừng bừng hứng khởi, ngày tàn ngất ngây
Xớt chia nồng ấm men say
Rượu, Thơ, Đời thực ngọt cay chan hoà
Mến nhau dù chỉ sát na
Cũng là hạnh ngộ, ta bà chấp chi
Xôn xao quán sá thị phi
Mãng phu anh thiệt lạ kỳ xuất chiêu
Đốm tàn lửa giận phong phiêu
Ờ may chìm tắt trong chiều rêu rong
LA THỤY
(23 / 01 / 1996)
Thứ Năm, 1 tháng 12, 2016
NGHE THƠ LA THỤY NỬA KHUYA - Châu Thạch
Châu Thạch và La Thụy
NGHE THƠ LA THỤY NỬA KHUYA
Nghe thơ La Thụy nửa khuya
Mênh mang trời đất như chia hai miền
Miền cao trăng nước cung thiên
Miền gần thao thức ưu phiền trần gian
Âm trong nhẹ, vút mơ màng
Âm trầm lụy, tỏa mang mang cõi đời.
Nửa khuya mưa gió ngoài trời
Nghe thơ La Thụy thấy lời trăng sao
Tiếng thương đau, thấy ngọt ngào
Tiếng vui, thấy sóng dâng trào niềm riêng
Thấy anh hùng, thấy thuyền quyên
Thấy say chếnh choáng, thấy nghiêng hồ trường
Thấy hồn trăm sợi tơ vương
Buồn vui quyện với yêu thương chẳng lìa.
Nghe thơ La Thụy nửa khuya
Phòng hương quạnh giấc, ngoài kia đông về ./.
Châu Thạch
Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2016
ĐÊM SAY CÙNG LA THỤY - Thơ Lương Minh Vũ
Tác giả Lương Minh Vũ
Thơ: Lương Minh Vũ.
Giọng ngâm: Thoại Vi.
ĐÊM SAY VỚI LA THUỴ
Rót mông lung xuống bôi đầy
Đường lô nhô bóng, phố gầy guộc đêm
Trăng bơi đáy chén trăng mềm
Thơ ai gẫy vận bên thềm khuya rơi
Rót hỗn mang xuống mộng đời
Lăn qua cho hết cuộc chơi khóc cười
Rót quạnh hiu xuống cõi người
Sông xưa cuốn hết xanh tươi dấu nguồn
Rót niềm vui xuống nỗi buồn
Dù mai cuối sóng đầu truông cũng về
Rót ta chảy xuống tràn trề
Trăng say, còn bạn cận kề dìu nhau.
Lương Minh Vũ
Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016
THỦY CHUNG TÌNH BẠN SAU LINH CỮU, HAY "NGHĨA TỬ LÀ NGHĨA TẬN" - Hồi ký của Lâm Bích Thủy
Cô
Lâm Bích Thủy, trưởng nữ của nhà thơ tiền chiến Yến Lan (một nhà thơ
trong nhóm Bàn Thành Tứ Hữu) viết hồi ký về người cha kính yêu của mình.
Tác giả Lâm Bích Thủy
THỦY CHUNG TÌNH BẠN SAU LINH CỮU
HAY "NGHĨA TỬ LÀ NGHĨA TẬN"
Hãy quên đi quá khứ để rồi lại nhớ về quá khứ hơn bao giờ hết! Chiến tranh đã lùi sâu vào dĩ vãng, nhưng không dễ làm người ta quên được những năm tháng ấy. Ngoài những mất mát về thể chất do chiến tranh để lại còn một nỗi đau về tinh thần của những người trí thức có nhân cách và lương tri. Họ từ nhiều miền đất nước, trong đó có những người từ Miền Nam theo tiếng gọi của Đảng, Bác ra Bắc, nhưng người cùng thời chưa nhìn nhận ra chân giá trị đích thực của họ. Họ không có nỗi khổ nào hơn nỗi khổ là bị chính đồng nghiệp của mình gán cho tội phản động, chống Đảng rồi bị xã hội ruồng rẫy hàng chục năm trời!
Thứ Ba, 8 tháng 11, 2016
GÓC KHUẤT TRONG THỜI NHÂN VĂN GIAI PHẨM - Hồi ký của Lâm Bích Thủy
Cô Lâm Bích Thủy, trưởng nữ của nhà thơ tiền chiến Yến Lan (một nhà thơ trong nhóm Bàn Thành Tứ Hữu) viết hồi ký về người cha kính yêu của mình.
Tác giả Lâm Bích Thủy
GÓC KHUẤT TRONG THỜI NHÂN VĂN GIAI PHẨM
Lâm Bích Thủy
Tác giả Lâm Bích Thủy
GÓC KHUẤT TRONG THỜI NHÂN VĂN GIAI PHẨM
Lâm Bích Thủy
Từ nhiều ngày qua, trên báo, đài và web của
các nhà mạng đăng tin ông này bị tù, ông kia bị thu hồi thẻ báo v.v…, khiến tôi
nhớ và xót xa cho văn nghệ sĩ thời cha tôi. Thời mà người nào càng
tài giỏi càng bị vùi dập, oan trái, như nhạc sĩ Văn Cao, Cụ Phan Khôi, nhà thơ Quang Dũng v.v… Tôi
thương họ vì đã sinh bất phùng thời, họ đa tài nên bị gọi là bọn phản
động, là “Nhân văn giai phẩm”:
Vấn đề “Nhân văn giai phẩm” giờ đây người ta
có nhắc đến thì cũng chỉ như nói về sự ấu trĩ của một thời. Bây
giờ hồ dễ quay trở lại; vì được nhìn nhận với lý lẽ: “…trước
đây, do thiếu kinh nghiệm và năng lực, vô tình người lãnh đạo đã kìm hãm và
tước đi chân giá trị đích thực của nghệ thuật, tư tưởng và sáng tạo trong giới
văn hóa văn nghệ, đã khiến không ít nghệ sĩ bị oan trái…”.
Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2016
VĨNH BIỆT HIỀN ĐỆ NGÔ VĂN LONG - Thơ 4 Sinh Ngữ (Việt, Anh, Pháp, Tây Ban Nha) của Phước Tuyền Ngô Quang Huynh
1. Vĩnh Biệt Hiền Đệ. (Việt Nam)
2. Farewell to my brother. (English)
3. Adieu à mon frère. (Français)
4. Adios a mi hermano. (Español)
Vĩnh Biệt Hiền Đệ NVL
Long nằm xuống... phút giây nầy đã điểm.
Chấm dứt rồi... hiện diện ở dương gian,
Mảnh hình hài tứ đại sẽ tiêu tan,
Không còn nữa giữa giòng đời động loạn.
Nay từ giã thân nhân cùng bè bạn,
Trong niềm thương nỗi nhớ biết bao người,
Hình ảnh em cử chỉ với tiếng cười,
Thường đọc được trong mắt lòng nhân ái ...
Nhớ những lúc, trên đường đầy trở ngại,
Khi Miền Nam sụp đổ quá thương đau,
Anh em mình bàn tính chuyện trước sau,
Cùng vượt thoát... đúng ngay giờ nguy biến..
Trên xe nhỏ, chen chúc người thân mến,
Rồi xuống thuyền đánh cá vượt trùng dương,
Suốt ngày đêm mưa nắng, quá thê lương !
Luôn phó mặc xác hồn cho định mệnh.
Trời thương đoái, cuối cùng thuyền cập bến,
Bước lên bờ, tràn ngập nỗi hân hoan...
Rồi định cư tại Thung Lũng Hoa Vàng,
Anh em mãi gần nhau nơi quê mới.
Chuyện sẽ tới... và giờ đây đã tới...
Không thể nào tránh được phút chia tay,
Khi Thiên Cơ vạn sự đã an bài.
Đành chấp nhận... nhìn em đầy thương tiếc..
Thôi vĩnh biệt... nhưng nào đâu vĩnh biệt !
Chỉ tạm thời vắng bóng cõi trần gian...
Tuổi già anh, thấp thoáng ánh chiều tàn,
Không xa lắm, hẹn em ngày tái ngộ...
Phước Tuyền Ngô Quang Huynh
(Jul. 4, 2016)
Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2016
NGHỈ HƯU - Thơ Trần Mai Ngân
NGHỈ HƯU
(Tặng thầy giáo Đoàn Minh Phú)
Mây trôi... tháng Chín... mùa Thu
Bâng khuâng... ừ lại nghỉ hưu đến rồi
Xa rời bảng phấn, tường vôi
Trống giờ chơi thuở của tôi, của người
Giã từ đồng nghiệp một thời
Tôi xin giữ lại nụ cười đã cho
Bốn mươi năm một con đò
Bây giờ xa nhé... học trò tôi ơi !
Gửi em hy vọng của đời
Bước công danh đạt... tiếp lời Thầy Cô
Con đò... tôi đậu bến mô
Ân cần vẫn thế... hư vô dẫu là !
Trần Mai Ngân
Thứ Bảy, 13 tháng 8, 2016
LÝ NGẠO ĐỜI - Thơ Kha Tiệm Ly
Nhà thơ Kha Tiệm Ly
LÝ NGẠO ĐỜI
Chẳng có bầu mà tự nhiên muốn ói,
Chẳng phải thằng điên sao đột ré lên cười.
Rượu uống suông, uống một mình quen thói,
Nhức tai nghe con kéc nói tiếng người!
Nhân cách một đời người còn rao bán,
Còn thơ ta muốn bán chẳng ai mua.
Lỡ dạy học trò cái Tâm trong sáng,
Nên vào đời đứa thiệt đứa thua!
Chẳng bằng, bọn tự xưng kẻ sĩ,
Bôi tro, muối mặt riết thành quen
Đứa háo lợi háo danh, đạp chà sĩ khí
Ôm đống bạc tiền bất kể trắng đen.
Đứa mượn chút văn chương lếu láo,
Làm mặt mo che đậy cái tâm hèn!
Thương học trò ta:
Em “kiến nghĩa bất vi vô dõng giả”
Cho đời nầy còn có Lục Vân Tiên.
Lại thương em bút nghiên không thỏa chí,
Gồng gánh lên rừng đốt củi làm than.
Em chờ vận vác cần ra sông Vị.
Em như thầy, vỗ bụng nghênh ngang!
Tìm đỏ mắt không ra người tri kỉ,
Giận bấy nhân gian ta viết Lý Ngạo Đời
Một khúc giang hồ bỏ liều cũng phí
Ngâm vào bầu thỉnh thoảng uống chơi!
Kha Tiệm Ly
Thứ Năm, 4 tháng 8, 2016
CÂU CHUYỆN VỀ BÚT DANH CỦA NHÓM THƠ XỨ NẪU - Ký của Lâm Bích Thủy
Cô Lâm Bích Thủy - ái nữ của nhà thơ tiền chiến Yến Lan vừa gửi đến chúng tôi bài ký về bút danh của nhóm thơ tiền chiến Bàn Thành Tứ Hữu vang bóng một thời. Thân mời quý bạn đọc cùng xem:
Nhà thơ Yến Lan lúc còn trẻ
CÂU CHUYỆN VỀ BÚT DANH CỦA NHÓM THƠ XỨ NẪU
Lâm Bích Thủy
Bút danh Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí. Khi mới vào làng thơ, ông lấy bút danh Minh Duệ Thị. Bút danh này ít ai biết, ông đổi là Phong Trần. Nhìn vóc hạc thư sinh của ông, bác Tấn chọc vui “anh người mảnh mai như cây sậy, làm sao chịu được Phong Trần mà ước? ” và cũng bị một bà cụ thâm nho ở Bình Định nói tên này không phù hợp với tính cách Hàn nên đã khuyên đổi bút danh. Ông Trí bèn lấy chữ đầu của nơi sinh “Lệ Mỹ” và chữ đầu của quê cha “Thanh Tân” ghép lại thành “Lệ Thanh”. Bút danh này ông rất vừa ý, nhưng bác Quách Tấn lại trêu. “Bộ anh ngó dễ thương mà hiệu Lệ Thanh nghe cũng “yểu điệu thục nữ”, vậy tôi gọi anh là cô Lệ Thanh cho thêm duyên”. Ông Trí chẳng nói gì, ít lâu sau thấy người ta thấy tên Hàn Mạc Tử xuất hiện trên các báo.
Hàn Mạc có nghĩa là ”rèm lạnh”, ông cho là độc đáo, đến khoe với bác Quách Tấn.. Bác Tấn cười mà rằng “Kể cũng ngộ thật. Tránh kiếp PhongTrần lại đi làm khách hồng nhan. Sợ kiếp hồng nhan đa truân lại đi làm kiếp Rèm Lạnh. Tránh lờ chui vào lưới, sao lẩn quẩn quá thế?” Ông Trí bực quá “Anh này thật đa sự, không biết đặt cái đếch gì cho vừa lòng anh”. Bác Tấn hướng cho ông lối ra “nếu đã có rèm mà thêm bóng trăng vào, hỏi còn cảnh nào nên thơ bằng?”. Ông Trí bàn với bác Tấn một lúc, rồi lấy bút vạch thêm vành trăng non lên đầu chữ a ra chữ ă.
Chỉ thêm một cái dấu thôi mà nghĩa khác hẳn. Từ “Rèm lạnh” giờ thành “Bút mực.” Sau đó, ông Trí thích chí nói: “Đã có bóng trăng rọi vào, thì từ nay danh tôi cũng như thơ tôi sẽ mỗi ngày mỗi thêm rạng ngời như bóng trăng”.
Bút danh Chế Lan Viên
Tờ Văn Nghệ - Người văn. Số …. đề cập đến bút danh này .
PV: Nghe nói, bút hiệu của nhà thơ Chế Lan Viên xuất phát từ tình bạn với ông (Yến Lan)?
YL: Nói đúng hơn chữ “Lan Viên” là từ tên tôi và một bài thơ của tôi. Hoan làm thơ từ lúc 12, 13 tuổi, đầu tiên lấy bút danh từ những địa danh ngoài quê hương Quảng Trị như: Mai Lĩnh, Thạch Hãn, Thạch Mai. Khoảng 1934, tôi xa nhà xuống Qui Nhơn học. Đêm trước ngày ra đi, thấy trời đã tối mà cha tôi vẫn thắp đèn dầu tưới lan, tôi xúc động làm bài thơ
Rồi đây mỗi ngã một thân đơn
Con ngọn đèn xanh, cha mảnh vườn
Đêm lụi đèn tàn ai gạt bấc
Vườn lan ai ấy tưới thay con
Nghe tôi đọc hết bài thơ, Hoan xúc động rơm rớm nước mắt. Sau vài giây im lặng, Hoan chậm rải nói “Mình muốn làm một cái gì đó để kỷ niệm bài thơ và tình bạn của chúng ta”. Và Hoan đã thực hiện lời nói ấy; các bài thơ đăng trên “Tiếng trẻ” sau này Hoan đều lấy bút danh là “Lan Viên”.
Đến năm 1936 Hàn Mạc Tử có bài thơ “Thi sĩ Chàm” tặng Hoan, ghi mấy chữ là “Tặng Chế Bồng Hoan”. Nhà thơ Nguyễn Viết Lãm nhân lúc đến thăm bạn, ở bên bờ đầm Thị Nại, nơi Hoan đang trọ học. Xem thấy dòng đề tặng ở trang sách, bèn góp ý với Hoan “Hoan nên ghép hai tên lại làm kỷ niệm”.
Lúc ấy, bản thảo tập “Điêu tàn” vừa xong, Hoan lấy bút danh “Chế Lan Viên” và gửi cho Nguyễn Xuân Sanh, nhờ in ở Hà Nội. Từ đó trên thi đàn văn học Việt Nam người ta thấy bút hiệu – Chế Lan Viên.
Bút danh Yến Lan
Trong làng văn, ai cũng tìm cho mình một bút danh mang ý nghĩa khó quên; người thì lấy tên làng, tên dòng sông quê hoặc một kỷ niệm nào đó trong đời. Chắc chắn chỉ có ba tôi, người duy nhất lấy tên hai thiếu nữ yêu mình làm bút danh:
Thầy Lang tên thật là Lâm Thanh Lang. (Lan có g) Thầy và 12 học trò quây quần bên nhau, trong một gian nhà mái ngói âm dương, đối diện với cây me cổ thụ. Trước khi làm thầy, chàng đã nổi tiếng là người hay thơ, đẹp trai. Các nữ sinh thường đọc thơ và chuyện ngắn của chàng trên các tạp chí với bút hiệu Xuân Khai.
Riêng bút danh Xuân Khai, bác Quách Tấn có thắc mắc:
“…hiệu Xuân Khai có người bảo rằng do câu thơ cổ “ xuân khai hoa bản địa” mà ra. Tôi nghĩ tên chú là Lâm Thanh Lang, chữ lang có nghĩa “chàng” hoặc “cây cau” chứ có phải “Lan” là hoa lan đâu mà dùng “trích cú“ như vây?”
Tài thơ và cách ăn nói nhỏ nhẹ, có duyên của chàng làm xiêu lòng nhiều thiếu nữ. Dáng người phong độ, gương mặt ưa nhìn, ánh mắt trong sáng, tất cả toát lên vẻ thông thái làm các thiếu nữ ở huyện đêm nhớ, ngày mong…
Họ đến lớp học cốt chỉ để bàn về thi sĩ hay thơ, đẹp trai hơn là thu lượm kiến thức.
Trong giờ học, thầy đang bình giảng về thơ, đôi khi học sinh bỗng thấy thầy khựng lại và ánh mắt nhìn ai đó; học sinh nam theo hướng mắt thầy thì phát hiện ra nơi đó là chỗ ngồi của một thiếu nữ tình tứ liếc thầy, khiến thầy bối rối ngập ngừng...
Tôi không biết ông già tôi đẹp trai cỡ nào mà má tôi cũng hay nói tới điều này. Còn anh Quách Giao, con bác Q,Tấn đã nói với tôi: “Ba em hồi trẻ đẹp trai lắm đó, thiếu nữ nào thấy cũng mê chứ không phải mình má em đâu”
Lớp học của thầy, có hai thiếu nữ khá dễ thương; họ cùng tầm tuổi và vóc dáng. Cô tên Yến, cô tên Lan. Hai cô thương nhau như chị em ruột, đi đâu cũng có nhau. Cả hai đều thương thầm nhớ trộm; mê thơ và giọng đọc của thầy Lan lắm. Một hôm, không biết là vô tình hay cố ý, hai cô nói rõ to như để thầy nghe được “Tao với mày chơi thân nhau như vầy, sau này có lấy chồng, chỉ lấy chung một chàng đẹp trai làm chồng để chúng mình khỏi xa nhau” . Nghe lõm trọn câu nói của hai nữ sinh, thầy Lang tủm tỉm cười ý nhị! Ít lâu sau, cô Yến theo gia đình chuyển vào Nha Trang. Tình bạn của họ bị chia xa. Cô Lan vẫn đều đặn một mình đến lớp thầy Lang học.
Không lấy được chàng thi sĩ, cô Lan nhất quyết đi tu. Cô vào tu tại chùa Sư Nữ ở Phan Thiết. Cả nhà tỏa khắp nơi tìm, nhưng bóng dáng cô như biến khỏi mặt đất? May có bà chị họ đi lễ Phật, gặp, lén báo tin về gia đình. Chàng thi sĩ họ Lâm khăn gói theo anh trai cô, vào tận chùa đón về. Và bài thơ “Phan Thiết”có 18 câu đã ra đời. Xin trích:
Ôi Phan Thiết, sông Cầu, Lăng Cô, Đà Nẵng
Đến một lần chỉ để nhớ mãi không khuây
Đêm lạnh, tóc mai dầm hướng gió
Nặng tình xanh trăn trở giữa chăn đơn
Tôi thức uống bầu sao từng hớp nhỏ
Gạn vô lòng chất biếc mỗi tình thương ….
Tháng 4/1944
Sau bước ngoặc này, cô Lan và thầy Lang gắn bó hơn. Mặc mẹ kế ngăn cản “ Lấy con Lan là lấy gái nạ dòng”; mặc cha cô Lan cấm đón. Hai người vẫn lén rủ nhau xuống bãi biển Qui Nhơn, ra Đập Đá trên những chuyến xe ngựa rất lãng mạng.
Cha cô thấy họ quá quyết tình, đành chấp nhận để con gái cưng lấy chàng thi sĩ mà không màng đến nữa việc có môn đăng hộ đối hay không!
Cô Yến ở Nha Trang nghe tin, gửi thư ra động viên, vun đắp cho hai người nên duyên vợ chồng và tế nhị rút lui lời thề lấy chung chồng năm xửa năm xưa nữa!
Tội nghiệp, trong lần đi tản cư, chiếc thuyền chở gia đình cô Yến bị lật làm chết hết! Biết tin, chàng thi sĩ Xuân Khai, nhớ lời thề ngây thơ của đôi bạn, và để kỷ niệm tình bạn của họ, ông thay bút danh Xuân Khai thành Yến Lan
Trong cuốn “Phong trào thơ mới 1932-1945” giáo sư Phan Cự Đệ cho rằng, nhóm thơ có cả Bích Khê và Hoàng Diệp. Ông vẫn giữ ý kiến của mình khi tái bản. Điều này, không đúng. Bác Quách Tấn khẳng định “Tứ linh chỉ có 4 người: Hàn, Yến, Quách, Chế. Mỗi người mang tên một linh vật. Theo bác, người đầu tiên dùng bút hiệu của nhóm Tứ linh trong thi đàn là Hoài Thanh.
Lâm Bích Thủy
Thứ Ba, 2 tháng 8, 2016
CHẤT VIỆT GIAN ĐÃ RÕ - Thơ Đỗ Trọng Tầu
Vừa qua, nhà hàng Thanh Thủy - Cà phê Pensy, ở Đà Lạt, đã bộc lộ sự phân biệt đối xử: khinh thị khách hàng Việt Nam, trọng thị khách hàng Trung Quốc. Bạn Đỗ Trọng Tầu đã làm bài thơ bày tỏ thái độ khi đọc bài viết "CHUYỆN KHÓ CHẤP NHẬN Ở NHÀ HÀNG THANH THỦY - CÀ PHÊ PENSY ĐÀ LẠT".
(http://bao.click49.net/chuyen-kho-chap-nhan-o-nha-hang-thanh-thuy-ca-phe-pensy-da-lat/)
Chúng tôi xin giới thiệu cùng quý bạn
Nhà hàng Thanh Thủy - cà phê Pensy, ở Đà Lạt
CHẤT VIỆT GIAN ĐÃ RÕ
(Tặng nhà hàng Thanh Thủy - Cafe Pensy Đà Lạt)
Dân Nam khinh rẻ người Nam
Nằm trong nôi mẹ mà ham ngoại Tàu!
Ngu đần đầu óc như trâu
ĐỒNG BÀO hai tiếng, còn đâu hỡi người?!
Cút sang với chúng mà chơi
Phản dân hại nước lũ người sài lang!
Mai sau... lỡ chiến tranh lan
Chúng làm nội ứng, phá tan nước mình!
Dân ta suy xét cho minh:
Chất VIỆT GIAN đã rõ rành mười mươi!
Cùng nhau tẩy uế cho rồi
Nhà hàng THANH THỦY ai ơi đừng vào!
Đỗ Trọng Tầu
Bắc giang, 02/8/2016
(http://bao.click49.net/chuyen-kho-chap-nhan-o-nha-hang-thanh-thuy-ca-phe-pensy-da-lat/)
Chúng tôi xin giới thiệu cùng quý bạn
Nhà hàng Thanh Thủy - cà phê Pensy, ở Đà Lạt
CHẤT VIỆT GIAN ĐÃ RÕ
(Tặng nhà hàng Thanh Thủy - Cafe Pensy Đà Lạt)
Dân Nam khinh rẻ người Nam
Nằm trong nôi mẹ mà ham ngoại Tàu!
Ngu đần đầu óc như trâu
ĐỒNG BÀO hai tiếng, còn đâu hỡi người?!
Cút sang với chúng mà chơi
Phản dân hại nước lũ người sài lang!
Mai sau... lỡ chiến tranh lan
Chúng làm nội ứng, phá tan nước mình!
Dân ta suy xét cho minh:
Chất VIỆT GIAN đã rõ rành mười mươi!
Cùng nhau tẩy uế cho rồi
Nhà hàng THANH THỦY ai ơi đừng vào!
Đỗ Trọng Tầu
Bắc giang, 02/8/2016
Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016
BÀI THƠ "BƯỚC THỜI GIAN " BẰNG 4 SINH NGỮ - Phước Tuyền Ngô Quang Huynh
BÀI THƠ "BƯỚC THỜI GIAN " BẰNG 4 SINH NGỮ
1. Bước Thời Gian (Việt Nam)
2. The Steps of the Time. (English)
3. Les Pas du Temps. (Français)
4. Los Pasos del Tiempo (Español)
1. Bước Thời Gian (Việt Nam)
2. The Steps of the Time. (English)
3. Les Pas du Temps. (Français)
4. Los Pasos del Tiempo (Español)
BƯỚC THỜI GIAN
Lẳng lặng nhìn trông những tháng ngày,
Không chơn không cánh hững hờ bay,
Lặng lờ phút dến, giờ qua lại,
Tối sáng đêm ngày mãi chuyển xoay...
Nhìn đến đồng hồ kim vẫn quay,
Thở đều hổn hễn với hai tay,
Chạy lui chạy tới không hề mệt..
Đếm bước thời gian tại cõi nầy...
Thời gian khởi điểm tự bao lâu ?
Có phải chăng đây lắm nhiệm mầu,
Vũ trụ hồng hoang bao thế kỷ ?
Rồi thành bốn bể với năm châu...
Thời gian không chậm, chẳng đi mau,
Tóc mới xanh đen, đã bạc màu,
Ngoảnh lại giựt mình thân biến đổi,
Hoàn toàn khác lạ trước và sau...
Làm sao trói buộc gót thời gian,
Khỏi sợ qua nhanh với muộn màng,
Khỏi thấy mặt trời chiều hấp hối,
Chắc điều hoang tưởng dưới trần gian...
Biết được thời gian chẳng đợi mình,
Thường xuyên biến dạng những sắc hình,
Vạn vật vô thường "sanh với diệt",
Thời gian không có "diệt và sinh".
Thời gian đã đến sẽ về đâu ?
Chuyên chở hân hoan lẫn muộn sầu,
Ngắn ngủi đời người đi lại đến,
Giàu sang danh vọng chẳng dài lâu...
Mọi sự Thiên Cơ đã an bài,
Kiếp người đã định ngắn hay dài..
Thời gian hiện tại là quan trọng,
Cố gắng bình tâm những tháng ngày...
Phước Tuyền Ngô Quang Huynh
(Oct.1, 2013)
Lẳng lặng nhìn trông những tháng ngày,
Không chơn không cánh hững hờ bay,
Lặng lờ phút dến, giờ qua lại,
Tối sáng đêm ngày mãi chuyển xoay...
Nhìn đến đồng hồ kim vẫn quay,
Thở đều hổn hễn với hai tay,
Chạy lui chạy tới không hề mệt..
Đếm bước thời gian tại cõi nầy...
Thời gian khởi điểm tự bao lâu ?
Có phải chăng đây lắm nhiệm mầu,
Vũ trụ hồng hoang bao thế kỷ ?
Rồi thành bốn bể với năm châu...
Thời gian không chậm, chẳng đi mau,
Tóc mới xanh đen, đã bạc màu,
Ngoảnh lại giựt mình thân biến đổi,
Hoàn toàn khác lạ trước và sau...
Làm sao trói buộc gót thời gian,
Khỏi sợ qua nhanh với muộn màng,
Khỏi thấy mặt trời chiều hấp hối,
Chắc điều hoang tưởng dưới trần gian...
Biết được thời gian chẳng đợi mình,
Thường xuyên biến dạng những sắc hình,
Vạn vật vô thường "sanh với diệt",
Thời gian không có "diệt và sinh".
Thời gian đã đến sẽ về đâu ?
Chuyên chở hân hoan lẫn muộn sầu,
Ngắn ngủi đời người đi lại đến,
Giàu sang danh vọng chẳng dài lâu...
Mọi sự Thiên Cơ đã an bài,
Kiếp người đã định ngắn hay dài..
Thời gian hiện tại là quan trọng,
Cố gắng bình tâm những tháng ngày...
Phước Tuyền Ngô Quang Huynh
(Oct.1, 2013)
Thứ Ba, 19 tháng 4, 2016
CHẬP CHỜN TỈNH MÊ - Tùy bút của La Thụy
Bài
viết từ năm 1978, bị bỏ quên rất lâu trong chồng bản thảo, tình cờ tìm thấy lại.
La Thụy năm 1978
“Voici
maintenant ma vieille angoisse, là, au creux de mon corps, comme une mauvaise
blessure que chaque mouvement irrit. Je connais son nom. Elle est peur de la
solitude éternelle, crainte qu'il n'y ait pas de réponse”.
(Trích trong tác phẩm Le Malentendu của Albert Camus)
(Trích trong tác phẩm Le Malentendu của Albert Camus)
Hình như Bùi Giáng dịch thì phải, mình không nhớ rõ. Nếu
đoạn văn dịch bên dưới không đúng thì coi như La Thụy phụ dịch:
“Và ở đây, bây giờ, niềm khắc khoải hãi hùng xa xưa từ trong sâu thẳm của hình hài, tựa như chấn thương tồi tệ, nhức buốt theo từng mỗi cử động. Tôi biết tên nó. Đó là mối sợ cô đơn ngàn thu không tiếng đáp”
“Và ở đây, bây giờ, niềm khắc khoải hãi hùng xa xưa từ trong sâu thẳm của hình hài, tựa như chấn thương tồi tệ, nhức buốt theo từng mỗi cử động. Tôi biết tên nó. Đó là mối sợ cô đơn ngàn thu không tiếng đáp”
Thứ Năm, 17 tháng 3, 2016
XƯƠNG RỒNG CHỢT NỞ HOA - Thơ Kha Tiệm Ly
XƯƠNG RỒNG CHỢT NỞ HOA
Ta quen em chưa tàn cuộc rượu chiều,
Mà như đã bao đời tri kỉ.
Ta hạt cát mang thân hàn sĩ,
Em loài hoa hương sắc mỹ miều.
Cát quên hẳn đời gió đùa nắng dội
Như ta quên một kiếp nặng phong trần.
Nắng sa mạc vẫn mát lòng đá sỏi,
Vì bên em, hoa nở cánh thiên thần.
Khi tình em nhuốm thơ ta cháy đượm
Dù nắng hanh, hoa cũng chẳng hao gầy.
Trăng còn nhuộm cho vàng thêm lá úa
Rượu ngọt ngào sao lại chẳng cho say?
Xa rồi thuở hận tình theo gió cuốn,
Đá bơ vơ cùng sa mạc ngậm buồn.
Từ bếp tình nồng em cháy đượm,
Mới biết hoa chiều vẫn đậm sắc hương.
Khi lời em thành cung đàn huyền diệu,
Vớt hồn ta chìm tận đáy ly sâu.
Hết một thuở phong ba đùa sỏi đá,
Hay từng đêm lặng lẽ uống trăng sầu.
Bỗng rơi xuống xuống một mầm hoa rất lạ
Nẩy chồi lên sau một trận mưa rào
Cám ơn em, loại hoa bên sỏi đá
Chẳng phi đời ta khi tóc đã thay màu
Kha Tiệm Ly
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)