BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2019

NGƯỜI PHÁP CŨNG NHỚ ÔNG ĐỒ XƯA… - Leopold Cadiere


               
                                 Chân dung Léopold Cadière 
                             Tranh: Họa sỹ Phan Ngọc Minh


NGƯỜI PHÁP CŨNG NHỚ ÔNG ĐỒ XƯA…
(Thầy Đỗ Trinh Huệ giới thiệu bài viết của ông Leopold Cadiere)

Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

Hoá ra không phải Vũ Đình Liên tiếc nuối, mà một người Pháp vào những năm 1940 s, 1950 s cũng cùng tâm trạng.
Mời đọc một đoạn của Leopold Cadiere đăng trong tạp chí Sud- Est số 12 (1950)

"Suốt thời gian lưu trú tại Quảng Bình, kéo dài đến 9 năm, tôi luôn bận rộn thực hiện công việc và xử dụng tất cả những dữ liệu có được (về những dấu tích còn sót lại ở vùng này). Thêm vào đó, các vị Khâm sứ như Grosleau, Auvergne đã can thiệp để Nhà cầm quyền Việt Nam cung cấp cho tôi những sách vở, bản in liên quan đến di ký mà tôi vừa khám phá. Nhờ tập hợp những dữ liệu có được mà tôi đã công bố “Những nơi lịch sử của Quảng Bình”, “Lịch sử địa lý Quảng Bình”, “Nghiên cứu việc thiết lập đế chế Nhà Nguyễn ở Đàng Trong” và đã được “Académie des Inscriptions et Belles-Lettres” công nhận và trao giải.
Trước tiên, tôi thu thập thông tin qua cửa miệng người này kẻ khác. Rất ít ỏi. Nhiều nhất là chỉ xem như chìa khóa để mở những tấm cửa đang kín mít khép lại trước mắt, hoặc như chỉ là những tín hiệu báo cho mình biết phía bên kia là cả một vùng bí ẩn rộng rãi, một kho tàng mênh mông phong phú. Nhưng làm thế nào để đột phá qua được cái vùng kỳ diệu ấy? Những ai được tôi tìm hỏi đều đơn giản trả lời “Đời Gia Long” hoặc “Trước Gia Long”. Những câu trả lời như vậy về sự kiện lịch sử, phần nào đã làm thỏa mãn không những giới bình dân mà kể cả lớp có học người Việt. Họ cũng chẳng đòi hỏi nhiều hơn. Y hệt như ở
Pháp vào thời Trung Cổ, những sự kiện thời La-mã hay tiền sử cũng được ráp nối huyền thoại, vào thời Charlemagne và các dũng sĩ của ông ta.
Tôi có nhờ mấy nho sĩ công giáo người Việt làm việc tại Công sứ Đồng Hới dịch một số tài liệu thu thập được. Nhưng thực ra không những tôi không kiểm soát được mức độ chính xác của bản dịch, mà nhiều khi còn khựng lại vì một thông tin nửa vời, về ngày tháng về tên tuổi. Tóm lại, tôi chẳng đạt tới đâu cả, thể như một đống ghi chú rời rạc không tài nào hy vọng rút tỉa ra được điều gì.
Và cái vùng Terra incognita ấy (vùng đất chưa được biết đến ấy) luôn luôn quyến rũ, mãi mãi hứa hẹn nhiều gặt hái phong nhiêu, vẫn khăng khăng niêm kín trước mặt mình.
Thế là tôi bắt đầu học chữ Hán và sau vài năm tôi bắt đầu xoay xở được, nghĩa là có thể dịch một bản văn lịch sử và kiểm tra các tài liệu nhờ người ta dịch trước đây. Đó là tất cả những gì tôi đang cần. Người đã giúp đỡ tôi rất nhiều đó là một vị nho sĩ ở Bắc Quảng Bình, Thầy Vinh. Nay tôi còn mường tượng rõ con người thầy: mảnh mai, dáng mình thẳng băng, bận chiếc áo dài đen có vài lỗ rách ở cùi chỏ. Điều tôi khâm phục hơn cả đó là phẩm cách của thầy, thêm chút dè dặt kín đáo và rất mực khiêm tốn. Không bao giờ thầy cao giọng to hơn người. Tiếng nói thầy ôn tồn, đều đặn, âm sắc từ tốn, trịnh trọng, chuẩn mực. Có chút gì nhẹ nhàng, êm ái trong âm giọng. Về sau tôi có gặp nhiều nho sĩ khác. Có hai loại nho sĩ. Có lẽ nên chuyễn qua thì quá khứ : hồi ấy có[1] hai loại nho sĩ. Loại nho sĩ như thầy Vinh, nhiều lắm. Và loại nho sĩ ba hoa, chỉ biết khẳng định, chẳng qua vì dốt nát. Loại này cũng rất đông. Thầy Vinh học hành nghiêm túc. Thầy cũng đã từng dự thi Hương thời Tự Đức, nhưng không đậu. Có lẽ vì thầy công giáo. Thầy cũng nghĩ như thế. Nhưng rõ ràng vốn hiểu biết thầy cao hơn các Tú tài, Cử nhân mà tôi gặp sau này. Thầy suốt đời dạy chữ Nho và không ngừng bồi bổ tăng thêm kiến thức cho mình. Thầy tinh thông chữ Hán, giải thích cú pháp rất rành mạch tới nơi tới chốn chứ không thỏa mãn vừa phải nực cười như các nho sĩ nửa vời khác. Thầy giúp tôi rất nhiều. Tôi không thể nào trả nổi đầy đủ ơn nợ ấy được. Tôi ước ao làm sao để thầy được một tước vị gì đó để được an ủi trong tuổi già, nhưng đã không thể làm được.
Ôi, các ông đồ già, uyên thâm, khiêm tốn, nghèo nàn nhưng phẩm cách! Đó là những nho sĩ thật sự. Họ đem lại danh dự cho dân tộc này. Trước đây trong mỗi làng cũng có ít nhất một hai vị. Bây giờ thì như hoàn toàn không còn nữa. May ra thì còn vài vị ở trên tỉnh. Nhưng cũng hiếm lắm. Nhưng cũng thua các vị thời trước. Vã lại già cả rồi! Mai đây thì không còn ai. Không còn ai. Có hồi, ở môt buổi họp của Ủy ban Trung ương về các Ngôn ngữ Phương Đông, tôi đã buồn bã nêu lên (một thực trạng): chẳng bao lâu nữa thì ở vùng đất Thuộc địa này chẳng còn ai biết chữ Hán nữa. Thật là nhục nhã cho nước Pháp khi phải đối diện với Trung Hoa, với Nhật Bản về việc vứt bỏ hoàn toàn những truyền thống xa xưa ấy! Phải chăng nên lập lại việc học chữ Hán và đào tạo một đội ngũ Nho học, đứng trên quản điểm thuần túy học thuật hoặc trên quan điểm thực tiển, họ sẽ đem lại rất nhiều lợi ích. Đề nghị của tôi đã đáp ứng những ước vọng của mọi người nên các ủy viên người Việt trong Ủy ban yêu cầu phải đúc kết thành một thỉnh nguyện. Mọi người đồng ý. Và nhờ thế về sau (trong chương trình) đã thành lập được ngành học Viễn Đông. Ôi! Giá như đào tạo được một đội ngũ nho học, tôi không muốn nói là họ giống y hệt ngày xưa -mỗi thời mỗi khác, phải biến chuyển - nhưng một đội ngũ cũng cùng có học vấn uyên thâm, cũng cùng có nhân cách, cũng cùng có phẩm chất!"

                                                                       Leopold Cadiere
                                                            (Sud-Est 1950, số 12 tr.33-35)

[1] il y a = có; il y avait= hồi ấy có…Chú thích của người dịch.

Không có nhận xét nào: