Đại Cathay huyền thoại giang hồ Sài Gòn trước 1975
Đến thập niên 60, nổi bật nhất trong giới giang hồ có
Đại Cathay. Người ta nói nhiều về một Đại Cathay, với mái tóc bồng bềnh, quần
Jean, giày cao cổ “đờ-mi-bốt”, trên môi không rời điều thuốc và chiếc hộp quyẹt
Zippo...
Những gì mà Đại Cathay đã tạo dựng chỗ đứng của mình
trong giới giang hồ thật khác biệt và đã trở thành… huyền thoại. Đối với Đại
Cathay, sự liều lĩnh không được đánh giá cao bằng lối sống “giang hồ tình
nghĩa”.
Đại sinh năm 1940, con của Lê Văn Cự, vốn cũng là một
tay giang hồ hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối. Khi còn nhỏ Đại sống với cha mẹ ở
đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội (nay là đường Đoàn Văn Bơ, Quận 4). Cả cha lẫn mẹ
đều nghèo, làm nghể chẻ củi thuê cho một vựa củi nằm bên kia Cầu Mống, cạnh Chợ
Cũ, Quận 1.
Đại thường xuyên trốn học và chơi với đám trẻ con bụi
đời cạnh vựa củi. Hiền lành, ít nói, dù khuôn mặt rất ngầu, tính phóng khoáng,
lại rất “lì đòn”. Những đức tính được “thừa kế” từ cha đã giúp Đại nhanh chóng
được đám trẻ đồng cảnh mến mộ. Mới 10 tuổi, “thủ lĩnh” Đại đã thường xuyên luồn
lách vào các chợ ăn trộm dưa, chuối về chia cho chúng bạn.
Đại bỏ học, sang vườn hoa Cầu Mống đánh giày, bán báo.
Khu vực làm ăn của Đại là xung quanh ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa)
– Nguyễn Công Trứ gần rạp xi-nê Cathay. Không ngày nào trước cửa rạp hát không
xảy ra những vụ đánh lộn giành khách giữa đám trẻ bụi đời. Lì lợm và liều lĩnh,
Đại lăn xả vào đối thủ, liên tục tấn công, dù kẻ đó có cao hơn, to hơn.
Trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng, dù tay
chân mặt mũi đầy thương tích. Nghiễm nhiên, hắn trở thành thủ lĩnh của đám nhóc
tì du thủ du thực trong khu vực. Cũng vì thế, gã đã ráp thêm “tên địa bàn hoạt
động” vào sau tên cúng cơm để trở thành Đại Cathay, một đại ca hùng cứ trên đường
Nguyễn Công Trứ. Đó là năm 1954, lúc Đại mới 14 tuổi.
Trở thành “anh chị”, Đại được quyền sống mà không mó
tay vào bất cứ việc gì. Hắn vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao cho đàn
em “đi làm” mang tiền về nộp. Được cái, hắn rất hào phóng.
Đại Cathay chia hết tiền cho đàn em, chỉ giữ lại cho
mình 1 khoản nhỏ, đủ cà phê, thuốc lá cho ngày kế tiếp. Vì vậy, đàn em rất
khoái và chịu nghe lời "anh Đại". Ở đây ta thấy giới giang hồ miền
Nam rất trọng “đạo nghĩa” và “công bằng” dù trình độ văn hóa của họ rất thấp.
Nằm ngay cạnh khu vực của Đại Cathay là bót cảnh sát
quận Nhì, thường được gọi là bót Dân Sinh, nổi tiếng dữ dằn. Rất nhiều lần, sau
khi dẫn đàn em đi chinh phạt các khu vực khác hoặc đánh dằn mặt người của các băng
nhóm đến giành lãnh địa, Đại Cathay đã bị xách tai lôi về bót.
Cuối cùng, cảnh sát tống Đại Cathay vào trại tế bần ở
Thủ Đức. Sau nhiều lần vào trại rồi trốn ra khỏi tế bần, Đại Cathay càng liều
lĩnh hơn, kinh nghiệm hơn, và càng lao đầu vào những trận thư hùng.
Năm 1955, Đại Cathay chuyển sang sinh sống ở khu vực
hãng phân Khánh Hội, cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos. Đám giang hồ khu vực này
“nghênh đón” Đại Cathay khá nồng nhiệt bằng những trận hỗn chiến.
Một lần nữa, sự lì đòn của Đại lại giành phần thắng.
Toàn bộ khu vực Khánh Hội, quanh cầu Ông Lãnh, gồm toàn dân giang hồ ở bến tàu,
vựa cá, vựa rau cải đều quy phục dưới trướng của Đại Cathay.
Đầu những năm 1960, thuyết hiện sinh và phong trào
hippie bắt đầu thâm nhập Sài Gòn. Đại Cathay tuy ít học nhưng cũng không hề kém
cạnh các bậc trí giả trong khoản ăn chơi. Đám nghệ sĩ, trí thức cũng nể Đại
Cathay vì tính chịu chơi và khoái vẻ ngang tàng, bụi bặm của gã.
Nguồn lợi lớn hơn cả mà Đại Cathay thu được lại không
phải từ tiền thuế “bảo kê”. Chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn là kẻ tình nguyện
đóng góp đều đặn để Đại nuôi quân, đồng thời để nhờ vả Đại làm hậu thuẫn khi cần
gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác.
Cả anh em tỉ phú Hoàng Kim Qui (vua kẽm gai), Xí Ngàn
“mặt rỗ” (vua thuốc Bắc), La Thành Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các
ngành nghề khác của người Hoa là những người đều đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ
uy thế của các “vua”, Đại Cathay cũng làm quen và "chơi chịu" với khá
đông nhân vật quyền thế và tên tuổi khác.
Sài Gòn thập niên 60 nổi tiếng có “tứ đại giang hồ” gồm
Đại Cathay, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế. Cả miền Nam đều biết tiếng
“tứ nhân bang”, nhất là sau khi cuốn tiểu thuyết “Điệu ru nước mắt” của nhà văn
Duyên Anh ra đời.
Sau một trận hỗn chiến giữa “tứ đại giang hồ”, Đại
Cathay lên đứng đầu nhóm và một trận chiến kinh hồn với băng đảng người Hoa của
Tín Mã Nàm đã đưa Đại Cathay lên ngôi “bang chủ” trong một đế chế mà khắp Sài
Gòn – Chợ Lớn chẳng có một băng nhóm nào dám đối đầu.
Cả một bộ máy quân sự khổng lồ của miền Nam dưới thời
Nguyễn Cao Kỳ hình như cũng phải “xuống nước”. Tướng “Sáu Lèo” Nguyễn Ngọc Loan
(khi đó nắm quyền chỉ huy lực lượng cảnh sát) ngỏ ý mời Đại Cathay về làm đại
úy cảnh sát để “dĩ độc trị độc”. Đại Cathay thẳng thừng từ chối:
“Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt
du đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại
danh liệt”.
Đại và cả đám đàn em bị tống ra Trung tâm hướng nghiệp
tại đảo Phú Quốc, hay còn gọi là “Trại Cửu Sừng”. Đây là nơi lưu đày những tên
lưu manh ngoại hạng dày thành tích bất hảo nhưng không có chứng cớ để bắt quả
tang, do chính Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan đề nghị thành lập nhằm “bài trừ du
đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp”.
Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của
Đại Cathay, là cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường
Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) đối diện với vũ trường Olympic. Nhân
ở lại Sài Gòn, biết chắc rằng loại “tù không án” như chồng mình e khó có ngày về.
Cô cùng anh trai vung tiền ra tìm cách cứu Đại Cathay.
Đại Cathay và người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của Đại Cathay, là cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng Thập Tự
Khi biết cô Nhân đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại
Cathay vượt ngục… Tướng Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực
hiện kế hoạch. Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng
nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám tép riu, còn
riêng Đại Cathay được cố tình cho đào thoát vào núi Tượng.
Sau đó, tướng Loan cho một tiểu đội biệt kích do thiếu
úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại. Trần
Tử Thanh sau này đã từng khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn
trước 1975 rằng chính tay mình đã nổ súng hạ gục Đại Cathay.
Trên đây chỉ là lời đồn đại, “đoán non đoán già” về
ngày tàn của Đại Cathay. Huyền thoại về cuộc đời và cái chết của Đại Cathay vẫn
có nhiều chi tiết chưa được làm rõ về một tên “giang hồ ngoại hạng”.
Bài viết của Việt Luận - Viet's Herald
*
Nguồn:
chinhhoiuc.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét