BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2025

GIÓ ĐƯA CÂY CẢI VỀ TRỜI – Trang “Cội nguồn lịch sử và văn hoá”



“Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu đời đắng cay”
 
Câu ca dao phổ biến này gắn liền với câu chuyện về bà Phi Yến, thứ phi của Nguyễn Ánh, và người con trai là Hoàng tử Cải.
 
Truyền thuyết này không được ghi chép chính thức trong sử sách nhà Nguyễn (như Đại Nam Thực Lục), nhưng lại có sức ảnh hưởng rất lớn trong dân gian, được lưu truyền một câu chuyện bi thương về gia đình Nguyễn Ánh.

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA CA SĨ KHÁNH HÀ – Đàng Sa Long



Lữ Thị Khánh Hà, sinh ngày 28 tháng 2 năm 1952 tại Đà Lạt. Bà theo học tại trường THPT Lâm Hà, Lâm Đồng. Bà tốt nghiệp vào năm 1969. Cha bà là nhạc sĩ Lữ Liên. Do ảnh hưởng của cha, ngoài cô, 6 anh chị em trong gia đình cô về sau đều theo nghiệp ca hát và đều trở thành những danh ca ở hải ngoại, gồm Bích Chiêu, Tuấn Ngọc, Anh Tú, Thúy Anh, Lan Anh và Lưu Bích.
 

Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2025

CA SĨ VŨ KHANH – Đàng Sa Long



Vũ Khanh là một ca sĩ đến từ Việt Nam hoạt động ở hải ngoại. Ông bắt đầu sự nghiệp ca hát và nổi tiếng sau năm 1975.
Vũ Công Khanh sinh ngày 1 tháng 4 năm 1954 tại Hà Nội trong một gia đình công giáo. Khi còn rất nhỏ, Vũ Khanh đã theo gia đình di cư vào Sài Gòn, vì vậy ông hầu như không có bất kỳ ký ức gì về quê nhà Hà Nội khi đó. Tại Sài Gòn, gia đình Vũ Khanh có một đại lý xe máy khu ngã 4 Ông Tạ, trên đường Thoại Ngọc Hầu. Lúc nhỏ, Vũ Khanh theo học tại trường công giáo trung tiểu học Thánh Thomas ở số 190 đường Trương Minh Ký tỉnh Gia Định, nằm bên cạnh giáo xứ Đa Minh.

QUẢN HUYỀN 管絃 - Bài viết của Khánh Ly, Tri thư đạt lễ


Hình ảnh: Quản huyền, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ


“Kiệu hoa đâu đã đến ngoài
Quản huyền đâu đã giục người sinh ly.”
                                      (Truyện Kiều)
 
Quản huyền, chữ Hán viết 管絃, nghĩa là ống sáo và dây đàn. Đây là từ ghép đẳng lập, gồm hai thành tố đều có nghĩa. Trong đó, Quản bao gồm các loại nhạc cụ bằng ống, thổi hơi được như sáo, tiêu, sênh, địch,... Huyền là các nhạc cụ gảy dây được như cầm, sắt, tỳ bà,... Quản huyền thường đi đôi với ti trúc 丝竹 (đàn sáo) mà ta quen gọi tơ trúc, để tạo nên bộ đôi điển hình trong âm nhạc cổ đại.
 

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2025

WUMAO 伍毛, DƯ LUẬN VIÊN CỦA TÀU - Nguyễn Văn Tuấn

Wumao伍毛 là tiếng lóng để chỉ những “Mạ thủ”罵手
 Mạ : Mắng chửi như trong mạ lị, nhục mạ, lăng mạ
 Thủ : Tay, tay nghề như trong cao thủ, danh thủ
*
Tàu ngày xưa là nơi sản sanh ra những mạ thủ, thì Tàu ngày nay cũng có những đội quân mạ thủ, thuật ngữ tiếng Hoa hiện đại là Wumao伍毛,có âm Hán Việt là “ngũ mao” dùng để chỉ “dư luận viên:
 ngũ: đội ngũ
 mao (danh): lông; (động): nổi giận, phát cáu...

Như thế, Wumao 伍毛  hay “ngũ mao” là đội ngũ của nhửng kẻ chuyên nhục mạ đối phương để kích động làm cho đối phương nổi giận, phát cáu


Tôi mới học được một danh từ mới: mạ thủ. Một cách ngắn gọn, mạ thủ là một kẻ chuyên nghề chửi. (Giống như dư luận viên ngày nay). Lịch sử ra đời của mạ thủ vẫn còn mang tính thời sự ngày nay.

Theo tác giả Huy Phương (báo Người Việt), danh từ này xuất phát từ thời Hán Sở tranh hùng và Tam Quốc Chí bên Tàu. Thời đó, nhà cầm quyền huy động những người có lá phổi lớn, tiếng nói vang, và có cách chửi độc địa để làm ‘mạ thủ’. Mạ thủ chỉ có mộ việc đơn giản là chửi bới đối phương. Họ trong tư thế trần truồng, xông lên phía trước, sát cổng thành của đối phương, và tung ra những lời chửi bới tục tĩu và dơ bẩn nhứt nhắm vào đối phương. Mục đích là hạ nhục và khiêu khích đối phương bằng cách thoá mạ ông bà tổ tiên của đối phương, sao cho họ mở cửa thành để lính xông vào. Điều trớ trêu là mạ thủ là những người bị chết đầu tiên vì họ không có vũ khí khi xông trận. Họ có thể xem như là những con chốt thí cho bọn cầm quyền.

CHUYỆN TÌNH CỦA ĐÔI DANH CA TUẤN NGỌC, THÁI THẢO – Đàng Sa Long

 

Chuyện tình khó quên của danh ca Tuấn Ngọc bắt đầu khá muộn màng. Năm 1994, lúc 47 tuổi, danh ca Tuấn Ngọc mới nên giai ngẫu với ca sĩ Thái Thảo nhỏ hơn ông 14 tuổi. Và họ vừa có được một đám cưới ngọc trai đầm ấm.

Giọng hát của danh ca Tuấn Ngọc làm say mê hàng triệu khán giả khắp nơi. Những người khó tính nhất, khi nghe danh ca Tuấn Ngọc trình bày ca khúc trữ tình, cũng phải thừa nhận vị trí đáng kể của ông trong đời sống biểu diễn. Vây quanh danh ca Tuấn Ngọc có không ít giai nhân, nhưng “chuyện tình khó quên” của ông lại chỉ gắn bó một người phụ nữ duy nhất là ca sĩ Thái Thảo.

TỪ HÁN VIỆT, ÂM HÁN VIỆT - Tri thư đạt lễ 知書達禮

 
                  

Trong tiến trình tiếp xúc văn hoá, nhiều yếu tố ngôn ngữ, đặc biệt là từ vựng tiếng Hán đã du nhập vào tiếng Việt. Những yếu tố vay mượn này được người Việt tiếp nhận, biến đổi và đồng hóa, qua thời gian dần hình thành nên hệ thống lớp từ có số lượng lớn là từ Hán Việt, được sử dụng rộng rãi và ổn định trong tiếng Việt hiện nay.
 
Có thể nói từ Hán Việt và từ vựng tiếng Hán hiện đại vẫn duy trì mối quan hệ họ hàng gần gũi, do cùng bắt nguồn từ một gốc chung trong lịch sử tiếng Hán. Song do sự khác biệt về lịch sử, văn hóa và lối tư duy của hai dân tộc qua thời gian nên giữa tiếng Hán, âm Hán Việt và từ Hán Việt tồn tại những khác biệt quan trọng. Cần phân biệt chúng như sau:

NGOẠI À CON MẤY BỮA NAY – Thơ Trần Vấn Lệ


   

Huế buồn hiu!  Huế không vui!
Gió mưa thương Huế ngậm ngùi sẻ chia...
 
Mưa từ, từ bữa hôm kia
Giăng giăng trắng suốt tư bề Thừa Thiên!
 
Có người nói mưa liên miên
Mưa tuôn nước đọng đầy thuyền Hương Giang...
 
O đưa đò đứng hành lang
Không ai gọi "ới đò ngang ới đò!"
 
O đưa đò tưởng mình mơ:
"Huế xưa với Huế bây chừ... khác nhau?"
 
Dĩ nhiên là khác cái màu!
Dĩ nhiên là khác cả tàu cau bay...
 
Ngoại à, con mấy bữa nay
về không thấy Ngoại!  Mưa hoài!  Vườn cau!
 
                                                   Trần Vấn Lệ

KHAO KHÁT THỂ XÁC MÃNH LIỆT TRONG “ĐÊM LẠNH” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN – Giáp Kiều Hưng


 Tác giả Giáp Kiều Hưng

Tôi đã viết 2 bài cảm nhận khi đọc 2 bài thơ “Em” và “Đêm” của Đặng Xuân Xuyến và hôm nay được nhà thơ Đặng Xuân Xuyến gửi cho đọc bài thơ “Đêm lạnh” anh vừa sáng tác, tôi rất vui và thích bài thơ này nên có vài dòng về “Đêm lạnh”.
 

CHÙM THƠ NGẮN CỦA TỊNH BÌNH




1.
Cười tươi trước gió sen thanh
Hoa rơi cánh rụng lại thành đài gương
Bao phen dầu dãi mưa sương
Búp tơ e ấp khẽ vươn mặt hồ...
 
2.
Lá đâu tranh sắc cùng hoa
Âm thầm diệp lục hoan ca mặt trời
Dịu dàng che giọt nắng rơi
Điểm tô hoa mãi rạng ngời đẹp xinh...
 
3.
Một thời hoa bướm đã trôi xa
Ngây thơ mắt ngọc giọt sương ngà
Hồn nhiên cứ ngỡ trần là thật
Bất giác tỉnh rồi giấc mơ hoa...
 
4.
Này đây ngọn cỏ cành sương
Nhắc ta quán niệm vô thường phút giây
Dòng đời tan hợp bèo mây
Dụi con mắt thức giữa ngày chiêm bao...
 
                                         TỊNH BÌNH

LỤT NĂM NAY, HUẾ LỤT BỐN LẦN – Thơ Lê Phước Sinh


 

Xắn lên trên đầu gối,
con chim ngủ yên nghe
lông lá dù thấm nước
đừng trách chi ông trời.
 
Bờ kia tre nửa cụm
mái phên rã theo giòng
người than ơi ới ới...
như hát bội giữa đồi.
 
Lụt lên nhồi Lụt xuống
nước bạc tố dân tôi ...
 
LÊ PHƯỚC SINH

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2025

VẤN VƯƠNG, VƯƠNG VẤN, VẤN VÍT - Hoàng Tuấn Công


 
Đề thi môn tiếng Việt lớp 4 của Trường Tiểu học Điện Biên 1 (TP Thanh Hoá, năm học 2021 – 2022), yêu cầu học sinh nhận diện từ láy như sau:

“Từ nào không phải từ ghép: A. châm chọc; B. vương vấn; C. phẳng lặng; D. nóng nực”.
Học sinh khoanh tròn vào phương án “B. vương vấn”, và được chấm là đúng (câu 7: 0,5 điểm).
 
Từ điển từ láy tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên) cũng thu thập, giảng từ “vương vấn”“Cứ phải nghĩ đến, nhớ đến mà không thể dứt ra được mặc dù không muốn thế”, và lấy ví dụ “Vương vấn chuyện gia đình. Xa nhau rồi mà lòng còn vương vấn”; còn ở mục từ “vấn vương” thì giảng là “như vương vấn”, ví dụ “Suy nghĩ vấn vương; Cho nắng hường vấn vương muôn ngàn sợi” (Hàn Mạc Tử)”.
 
Tuy nhiên, “vương vấn” hay “vấn vương” đều là từ ghép đẳng lập, không phải từ láy. Cụ thể:

-"Vương" nghĩa là mắc vào, dính vào, thường là vô tình, ngoài ý muốn (như "Bỏ thì thương, vương thì tội" – Tục ngữ; "Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng" - Kiều).

- "Vấn" , gốc Hán vốn chỉ việc mặc đồ tang thời xưa, phải để đầu trần, cột tóc, dùng vải gai quấn đầu. Về sau, từ này được dùng với nghĩa quấn, cột, cuộn thành nhiều vòng (như vấn khăn; vấn tóc nói chung, cùng nghĩa với vấn trong vấn vít).

BIẾT ƠN AI ĐỌC BÀI THƠ NÀY – Thơ Trần Vấn Lệ


   

Ít có chiều nào vui!
Thường chiều là... tư lự!
Người ta nhớ quá khứ,
người ta lo ngày mai...
Tối có thể lai rai
vài chỗ vui, giải trí!
Những năm dài ở Mỹ,
ít có chiều... tưng bừng!
 
Năm mươi năm... như không
có một chiều thoải mái!
Đến những người con gái
chỉ nhớ là buổi chiều
chớp chớp mắt đăm chiêu...
mình không tươi mát nữa...
Mặt trời lặn nắng đỏ
rực lên như màu cờ...
nó làm khô bài thơ!
Nó hoen hoen... buồn bả!
Chồng ôm vợ hôn má
... vài miếng phớt phớt thôi
còn những nụ hôn môi
chỉ là... hoa-tình-sử!
 
Tôi thản nhiên lắm đó
mà cứ chiều buồn buồn
nhớ Má chờ bữa cơm
nhớ Cha đậu xe gọn...
chỉ nhẹ gỡ cái nón
để xuống chỗ thường ngày!
 
Ôi... những chiều mưa bay
nhớ bờ vai ai lắm!
Nụ cười là chút nắng
thăm thắm chút môi nha...
 
*
Chiều ở quê người ta
nói thật:  Mắt-Có-Nước!
Tổ Quốc ơi...con trượt
Ngồi đây:  lề cỏ hoa...
 
Trần Vấn Lệ

VÀI TÂM SỰ VỀ CÂU "NGHỊCH THIÊN CẢI MỆNH" – Đặng Xuân Xuyến



Khuya qua, ngày 10 tháng 11 năm 2025, một bạn đọc điện hỏi con người có "Nghịch Thiên cải Mệnh" được không vì mấy Thầy Tử vi nói với cậu ấy là "Di cung hoán số" được. Vì đã gần 24 giờ, khuya quá rồi, tôi không tiện trả lời nên hẹn cậu ấy sáng nay sẽ viết vài dòng về thắc mắc của cậu ấy, cũng là thắc mắc của một số bạn đọc khác đã gửi tới tôi: có thật sự "Nghịch Thiên cải Mệnh" được không?

NỬA KIA – Thơ Lê Kim Thượng


   

1.
Nhớ ngày thưở ấy… “Ngày xưa…”
Chung trường, chung lớp… tuổi vừa biết yêu
Thương ngày nắng sớm, mưa chiều
Ngày thơ, ngày mộng, dáng Kiều lung linh
Trao nhau những nụ hôn tình
Nắng soi mặt nước in hình đôi ta
Tình yêu chắp cánh bay xa
Vòng tay ôm ấp, ngày qua, ngày ngày
Người yêu như thể người say
Men tình chuếnh choáng, ngất ngây miệt mài
Yêu người mới biết nhớ hoài
Yêu người mới biết ngày dài quạnh hiu
Trong vòng tay ấm hương yêu
Lời tình thủ thỉ, cho nhiều thiết tha
Hoàng hôn tắt nắng đường xa
Bước về không nỡ… ơi ta… ơi mình…

TIẾNG QUÊ VỌNG GỌI – Thơ Tịnh Bình


   

Biết tìm đâu vệt mây chiều cố xứ
Mắt hoàng hôn ầng ậng nước nhớ nhà
Ta xa lạ giữa bốn bề vội vã
Chợt thèm quê
Cỏ dại
Một lối về...
 
Nghe sông gọi lời phù sa ngọt lịm
Nước về đâu trăm sóng nhỏ lạc dòng
Đớp bóng mình cá lầm mê nguồn cội
Vỡ bóng rằm trăng òa khóc mặt sông
 
Thương bóng núi trầm mặc cùng lau lách
Những đàn bò mê mải gặm hoàng hôn
Nhòa dáng khói cánh đồng như thiếp ngủ
Tiếng mục đồng bảng lảng vọng chiều hôm
 
Nhói lòng không cỏ may ghim chân bước
Quê mình ơi man mác điệu ru hời
 
Bay về đâu cánh chim trời nặng nợ
Lả giọng mây chiều... Tiếng quê gọi mòn hơi...
 
                                                        Tịnh Bình

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2025

TÔI ĐỌC “CHỮ NGHĨA VĂN CHƯƠNG” CỦA LA THỤY- Nguyễn Văn Trị



Mình nhận được tác phẩm "Chữ Nghĩa Văn Chương" của nhà văn La Thụy (Đoàn Minh Phú) gửi tặng qua đường bưu điện, cùng lời nhờ chuyển tặng đến một vài thầy cô và bạn đồng môn.
Trước hết xin cám ơn tình cảm bạn dành cho mình và cũng có vài cảm nhận sau khi đọc (dù tuần lễ này khá bận rộn).
 
Về tác giả La Thụy
 
La Thụy là bút danh của Đoàn Minh Phú, cựu học sinh trường TH Nguyễn Hoàng Quảng Trị niên khoá 1968 -75, giáo viên về hưu tại La Gi, Bình Thuận (cũ).
Ngoài công việc giảng dạy, anh dành trọn đam mê cho văn chương, thể hiện qua vai trò thành viên Hội Văn học Nghệ thuật Bình Thuận và là đồng quản trị trang blog Văn Nghệ Quảng Trị (cùng anh Nguyễn Khắc Phước, cựu học sinh Nguyễn Hoàng khóa 64-71). Trang blog này là nơi giới thiệu những cây bút có gốc gác quê hương Quảng Trị và các tỉnh miền Trung, kho lưu trữ bài viết được chọn lọc từ năm 2008 đến nay.
 

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

CẢNH NỨT RẠN TRONG NHÀ TÂY SƠN THỰC SỰ NHƯ THẾ NÀO ? - Quách Tấn/Quách Giao



“Tập Nhà Tây Sơn” này, tôi viết theo những tài liệu của cha tôi là Quách Tấn đã sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại.
Trước khi viết, trong khi viết và sau khi viết xong, tôi đã được cha tôi hướng dẫn và uốn nắn sửa chữa những chỗ chưa phản ánh đúng, đầy đủ sự việc và tinh thần.Gia tộc tôi sinh cư lâu đời tại xứ Tây Sơn.
 
Từ nhỏ chúng tôi đã được nghe cha tôi và các thân sĩ kỳ cựu trong vùng trao đổi với nhau những chuyện về Tây Sơn. Và trong gia đình, cha tôi cũng thường kể cho con cháu nghe những chiến công oanh liệt của nhà Tây Sơn, gây lòng tự hào, kính phục.
 
Thời trung học, tôi cũng đã học sử Tây Sơn, cũng đã đọc nhiều sách về Tây Sơn. Nhưng tài liệu thì nghèo nàn và sự việc có nhiều điểm không giống những điều tôi đã được nghe truyền. Cha tôi đã nhiều lần giải thích sự sai biệt ấy, cho biết rằng:
 
A. Do ngòi bút kẻ viết sử thời ấy xuyên tạc, giấu bớt sự thật cho vừa lòng nhà Nguyễn Gia Miêu đang thống trị.
Do các sử gia thời ấy ở xa (miền Bắc nên không sát).
Do sự đàn áp của chính quyền rất khốc liệt, nhân dân địa phương có liên quan trực tiếp với Tây Sơn ngậm miệng không dám nói lại rõ sự thật.
 
B. Mà sự thật về Tây Sơn từ khi nhen nhóm cuộc đại nghĩa đến lúc bại vong rất phong phú, nhiều gia phả còn ghi, nhiều cháu con các danh tướng, danh thần còn nhớ biết và truyền lại. Các sách ghi chép của các nhà Nho yêu nước sống gần thời ấy về sau có ghi chép lại.
 
Cha tôi đã có ý muốn viết lại lịch sử Tây Sơn cho đủ hơn, đúng hơn, để lưu lại những điều hay, đẹp, cao cả của ông cha cho con cháu về sau biết mà tự hào, tự cường. Vì vậy, từ năm 1930 đến 1945, suốt 15 năm, cha tôi đã sưu tập, ghi lại, tiếp xúc và đi đến cả một số nơi xảy ra các sự kiện lịch sử ấy để quan sát để thông cảm với cổ nhân.

DUYÊN GIĂNG GIĂNG MƯA – Thơ Trần Vấn Lệ


     

Bão tận Ca ri bê... nên Cali cứ nắng!
Mới hơn bảy giờ sáng, nắng bừng lên chào ngày!
Và đàn chim sẻ bay.  Hai con mèo ngồi ngó...
Những hạt gạo còn đó... mái nhà kia, còn sương!
 
Một ngày mới dễ thương nhưng bắt đầu thấy ghét!
Hai con mèo chết tiệt cứ rình chim, là sao?
Tôi đuổi mèo đi mau, chúng về lại nhà chúng...
Chim đâu biết, cảm động: lòng tôi yêu quý chim?
 
Tôi lục ca dao tìm có câu nào thật đẹp
để nói cho em biết lòng tôi thương nhớ em!
"Tìm em như thể tìm chim,
chim ăn biển Bắc, anh tìm biển Nam!".
 
*
Cơn bão không đi ngang.  Santa Monica biển lặng
Tàu Long Beach đi thẳng, nó lên San Francisco?
Nước rẽ trăm đường thơ, hồn tôi tan, ngơ ngác...
Biển một thời tôi lạc, em lạc biển trời nao...
 
Nhớ quá, Ngoại, vườn cau có em theo lúp xúp...
Cũng nhớ chớ, giàn mướp hoa vàng, dây hay duyên?
Không mà!  Anh nhớ em... Nghĩ lúc trời biển động,
Sóng lòng tan theo sóng, duyên lòng giăng giăng mưa...
 
Chao ôi Một Bài Thơ
     Sáng Nay Tôi Làm Nháp!
          Em, chim ăn biển Bắc
               Tôi, đi tìm biển Nam!
 
                                                                   Trần Vấn Lệ

“LẬT SỬ”, MỘT CÁCH GỌI KHÔNG ĐÚNG - Mai Quốc Ấn



Tôi chỉ bắt đầu tìm hiểu về vua Gia Long Nguyễn Ánh từ năm 26 tuổi. Trước đó, vị đại anh hùng trong tôi là vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Và trước 26 tuổi, nhận thức của tôi đa số là từ sách vở “chính thống”.
Nói thẳng là “bị nhồi” kèm “tự nhồi” vì tôi rất mê đọc sách.
Nhưng hiện nay, những kẻ nào nói rằng những người đang đưa ra các vấn đề lịch sử với những tư liệu đa dạng, phương pháp luận khoa học là đang “lật sử” thì thật bậy bạ.

NGUYỄN PHÚC QUÂN, HOÀNG TỬ THỨ MƯỜI CỦA VUA GIA LONG, NGƯỜI QUẬY TUNG KINH THÀNH HUẾ - Lê Quang Thanh Tâm



Trong những người con vua Gia Long sinh ra giữa thời thái bình, không vướng gió bụi chiến chinh, thì nổi bật một vị hoàng tử ngông nghênh, ăn chơi "tới nóc", quậy tung trời đất, làm náo động chốn kinh kỳ, ấy chính là Nguyễn Phúc Quân, tức Quảng Uy Công, con trai thứ mười của Hoàng đế.

NGƯỜI NAM KỲ - Lâm Văn Bé

Giữa năm 1834, vua Minh Mạng đã chính thức đặt danh xưng Bắc kỳ và Nam kỳ thay cho cách gọi cũ là Bắc thành và Gia Định thành đã giải thể trước đó mấy năm..
 

Người dân miền Thuận Quảng, sau gần 400 năm tiếp cận với nền văn hóa bản địa Phù Nam – Chân Lạp, với người Minh Hương, người Pháp, tác động bởi một môi trường thiên nhiên khắc nghiệt thuở ban đầu nhưng trù phú về sau đã tạo cho họ những nét đặc thù mà từ ngôn ngữ đến tâm tình lẫn tâm tính có nhiều khác biệt với tổ tiên của họ ở đàng ngoài.
 

KHAI CĂN 開根 – Ung Chu, Hán-Việt Thông Dụng, Thuật ngữ Toán học



EXTRACT - KHAI CĂN
EXTRACTION - PHÉP KHAI CĂN

Phép khai căn là phép toán ngược lại với phép nâng lên luỹ thừa, hành động thực hiện phép khai căn để tìm căn gọi là "khai căn" 開根.
- khai : mở, xẻ, phân tách, phân li, như trong "li khai", "khai trừ", "extract" tiếng Anh nghĩa là phân tách, chiết xuất, trích li

- căn : gốc rễ, thuật ngữ toán học này trong các ngôn ngữ đều xuất phát từ nghĩa đen là gốc rễ, như "root" tiếng Anh, "racine" tiếng Pháp, "Wurzel" tiếng Đức... "Radical" tiếng Anh có gốc Latin "radix" nghĩa là gốc rễ. Tiếng Nhật đọc là "kon" こん, tiếng Hàn đọc là "geun" .

"Khai căn" 開根 là từ ta mượn tiếng Trung Quốc (giản thể: 开根). Khai căn bậc hai (ngược với bình phương) được gọi là "khai phương" 開方 (giản thể: 开方). Tiếng Trung Quốc gọi căn bậc hai (tiếng Anh: squareroot) là "bình phương căn" 平方根. "Bình phương" 平方 nghĩa đen là hình vuông phẳng, cũng như "square" tiếng Anh, diện tích hình vuông là bình phương độ dài cạnh.
                                                                                  
                                                                                  Ung Chu
                                                                        Hán-Việt Thông Dụng
                                                                       #Thuật_ngữ_Toán_học

Thứ Năm, 6 tháng 11, 2025

MẤY NGÀY ĐẦU MÙA THU – Thơ Trần Vấn Lệ


   
 
Lạnh và khô.  Khó chịu!
Mới vào Thu, mới nhuốm màu Thu!
Vàng chưa đủ để nhuộm vàng phố xá
Xe bus vàng vẫn chạy dọc đường quen...
 
Không thấy anh và em
cầm tay nhau thong dong hứng lạnh.
Hình như ai cũng xếp đặt sẵn sàng
làm thêm giờ khi mùa Đông sắp tới.
 
Vài tháng nữa, cuối năm rất lạnh!
Sau Giáng Sinh, trời mới mở Thiên Đàng!
Thành Phố Buồn, người ta hát vang
Chúa hiện hữu trong trang Kinh bỏ túi!
 
Chỗ bình an nằm ngoài trái đất
Chỗ chia tay vẫn vậy, ở và về...
Người đi bộ đôi khi dừng cài bâu áo
Có khi dừng lâu nhìn tuyết bay qua...
 
Lạnh đầu Thu coi như chưa lạnh,
trời dành cho ba bốn bữa lo toan,
Những con thỏ tha cà rốt vào hang cất giấu
người thì tha lời cầu nguyện lên giường...
*
Người sẽ trách "Trời sao lạnh quá?"
Tuyết hồn nhiên nở tám cánh cười...
Hoa tuyết trắng nhuộm trắng trời xanh biếc
Mũ dạ đen che kín được buồn không?
 
                                               Trần Vấn Lệ

LỤT MIỀN TRUNG – Thơ Lê Phước Sinh


 

Thụt lên Thụt xuống
chưa đã mà sao ?!
lấp ló Sân trước
lại tràn Nhà sau...
 
Chơi chi mà bẩn
làm điên cái đầu
vừa dọn vừa bỏ
chưa đâu vào đâu...
 
Trên Nguồn ục xuống
như kiểu Băng trôi
thật chán ông Trời
hôm Lờ mai... Lút !
 
     Lê Phước Sinh