BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 2): NGUYỄN TRỌNG TRÍ PHẢI CHĂNG GỐC HỌ...NGUYỄN? - Phanxipăng
Kỳ 2: NGUYỄN TRỌNG TRÍ PHẢI CHĂNG GỐC HỌ...NGUYỄN?
Vấn đề gia thế của Hàn Mạc Tử cũng tồn tại lắm ly kỳ,
uẩn khúc, không dễ gì tỏ tường sớm một chiều!
Hàn thi sĩ có họ tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh
ngày 22 - 9 - 1912 tại làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng
Bình; nay là phường Đồng Mỹ, thị xã Đồng Hới, Quảng Bình; trong một gia đình
Kitô giáo. Thân phụ của nhà thơ là ông Nguyễn Văn Toản, bấy giờ làm công chức ngạch
thông Phán (cardre secondaire) ở đấy nên thường được mọi người gọi là “thầy thông Toản” hoặc “thầy Toản”. Thân mẫu là Nguyễn Thị Duy,
một phụ nữ Huế, con gái thứ 9 của ngự y Nguyễn Long, người gốc Trà Kiệu (Quảng
Nam) và ở Vạn Xuân - vùng đất thuộc mạn bắc sông Hương, nằm cạnh kinh thành Huế.
Điều đáng ngạc nhiên là tất cả chú bác của nhà thơ đều
mang họ Phạm, một họ nghèo ở xứ đạo Ồ Ồ (Thanh Tân, Tân Sơn, Phong Sơn, Phong
Điền, Thừa Thiên Huế). Chỉ mỗi một mình ông bố đổi sang Nguyễn tộc, dù rằng trong
gia phả vẫn chép họ tên ông bằng hai chữ: Phạm Toán. Vì sao? Bao giờ?
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã tìm gặp em ruột
nhà thơ Hàn Mạc Tử. Đó là ông Nguyễn Bá Tín, hiệu Thiện Nam, hiện ở trong một
ngõ hẻm trên đường Kỳ Đồng, Q.3, Tp. Hồ Chí Minh. Chính ông từng viết mấy tập hồi
ký Hàn Mạc Tử anh tôi (Nxb Tp. Hồ Chí
Minh 1991) và Hàn Mạc Tử trong riêng tư
(NXB Hội nhà văn 1994) gây xôn xao một thuở. Cũng chính ông là tác giả loạt
tranh sơn dầu hồi hoạ (vẽ theo trí nhớ) những cảnh sinh hoạt của anh kế mình
lúc sinh thời. Loạt tranh này hiện treo trong phòng lưu niệm nhà thơ Hàn Mạc Tử ở bệnh viện Quy Hoà, Bình Định.
Ông Nguyễn Bá Tín năm nay (2000) ngoại bát tuần, mắt
đã mờ, tai hơi nặng, đi đứng khó khăn, song giọng nói vẫn còn sang sảng. Tiếp
chúng tôi, ông vồn vã:
- Noel năm 1788, ngay sau Hàn Mạc Tử anh tôi vừa xong bản thảo đánh máy, chưa làm thủ tục xuất
bản, tôi đã biếu riêng anh một tập rồi kia mà. Trong đó tôi có viết đoạn “Một ít lịch sử dòng họ”, anh đọc xong
quên ngay ư?
Đoạn ấy, chúng tôi đâu dễ quên. Nó thế này: “Từ nhỏ, không nghe ai nói đến dòng họ của
cha tôi, tuy vẫn biết nội tổ là Phạm Bồi, quê ở Thanh Hoá, lập nghiệp tại làng
Thanh Tân (Thừa Thiên). Cũng không ai tìm hiểu vì sao cha tôi mang họ Nguyễn mà
chú tôi đều giữ họ Phạm. Mãi đến năm 1933, mới gặp bà chị thúc bá với cha tôi
là Phạm Thị Nhàn (sage femme) tại Quy Nhơn và người cháu họ là Phạm Long
(sergent interprète) đều cùng quê quán ở Thanh Hoá. Từ đó mới biết được tông
tích dòng họ. Đến năm 1934, anh cả tôi là Nguyễn Bá Nhân tức là Mộng Châu, đem
tôi đi Hà Nội tìm tộc trưởng là Phạm Thành tức là Phạm Bá Thành, tòng sự tại Sở
Nội dịch toàn quyền. Theo gia phả bằng chữ Hán thì dưới thời Trịnh Kiểm soán vị,
gia thần thế tử Nguyễn Uông (con cháu Nguyễn Kiểm) nổi lên chống Trịnh Kiểm vì
đã ám toán thế tử Uông. Thất bại trong cuộc nổi dậy đó, một số bị giết, số còn
lại phải cải tánh ra “Phạm” bị đày vào Nam, về sau lại lập nghiệp ở Thanh Hoá.
Cuối triều Tự Đức, Pháp xâm lược Việt Nam, vua Hàm Nghi dời đô, hạ chiếu Cần
Vương, đem binh vào Huế cứu giá, đồng thời đa số dòng họ Phạm cũng tham gia các
phong trào khởi nghĩa. Phần nội tổ mang quân vào Thừa Thiên chống cự với binh
Pháp cho đến khi Trương Quang Ngọc làm phản, nộp vua Hàm Nghi cho Pháp. Cụ giải
tán binh sĩ, ném vũ khí xuống ao, lấp lại, xây nhà lên trên. Cụ vào giúp việc
cho cố Đồng, xây dựng nhà thờ Thanh Tân và ở lại lập nghiệp ở đó. Anh Mộng Châu
khi về thăm quê nội đã được trông thấy khẩu súng hoả mai của cụ đã rỉ sét. Từ
đó, nội tổ mai danh ẩn tích tuyệt đối, dòng họ không ai tiết lộ, vì có lệnh
truy nã cụ về tội đào nhiệm ở Thanh Hoá. Khi cha tôi đến tuổi đi học, cố Đồng
giúp cho vào Tiểu chủng viện, lập thủ tục thay đổi họ tên. Cũng nhờ tổ mẫu thân
thuộc với với cụ Nguyễn Hữu Bài có thế lực, nên mọi việc không gặp khó khăn. Sự
im lặng về nguồn gốc bên nội cũng dễ hiểu, ví lúc bấy giờ, cả cha tôi và anh Mộng
Châu đều là công chức Pháp thuộc, không muốn liên luỵ với quá khứ Cần Vương của
nội tổ. Ở Chủng viện về với chức tư (tonsuré), cha tôi ra làm việc ở toà sứ Huế,
về sau đổi vào Hội An, ông bỏ toà sứ qua Thương chánh...”
Chưa đủ điều kiện kiểm chứng toàn bộ về tính chính xác
lịch sử, song đoạn trích trên chẳng những không giải đáp đầy đủ câu hỏi mà
chúng tôi đặt ra, làm còn lại bật thêm một vài băn khoăn khác.
Chẳng hạn như họ đạo Thanh Tân thuộc giáo xứ Tân Sơn,
theo tư liệu 150 năm giáo hội phận Huế 1850 - 2000 (Tổng giáo phận Huế 2000,
tr.114), thì thời điểm hình thành vào năm 1867 mà linh mục đặt nền móng xây dựng
là Auguste Chaiget, tên Việt là cố Soái, còn cố Đồng lại là Jean Reneeaud, cha
sở đầu tiên ở giáo xứ Tân Mỹ thuộc vùng đầm phá huyện Phú Vang từ năm 1888, chứ
chưa thấy ghi dấu gì với giáo xứ Tân Sơn trung du sau giai đoạn Nguyễn Quang Ngọc
bắt vua Hàm Nghi (tháng 10 - 1888) cả. Vậy tác giả Nguyễn Bá Tín chép nhầm
chăng?
Ông Tín cũng nhầm khi ghi chú chức tư là Tonsuré. Nhờ
quý linh mục tư vấn, chúng tôi được biết: Trước kia, đại chủng sinh đạt Tonsuré
(tính từ của danh từ Tonsure) nghĩa là mới chịu phép cắt tóc, tức nghi thức gia
nhập hàng giáo sĩ; còn chức tư là acolyte - chịu phép giúp lễ.
Xét trục lịch đại, nếu theo đoạn trích trên, thì riêng
gia đình Hàn Mạc Tử mang họ Nguyễn chính là sự “về nguồn” đúng đắn?
Gia đình ông Phạm Thân, chú ruột của Hàn Mạc Tử, lại
truyền khẩu một thông tin khác:
- Bác Toán (họ hàng vẫn gọi Toán chứ không gọi Toản) hồi
nhỏ học giỏi nhất xứ Ồ Ồ. Hoàn cảnh túng bấn, bác phải vô Huế, nhận làm con
nuôi nhà quan ngự y để được ăn học. Nhà quan lấy giấy tờ đổi họ cho bác, để bác
dễ thăng tiến. Lại còn gả con gái cưng cho nữa!
Ông Tín cho chúng tôi biết rằng cụ thân sinh vốn tên
Toán. Sau do có bạn đồng sự trùng tên nên tự ý đổi thành Toản cho dễ phân biệt.
Cũng theo ông Tín, ông Nguyễn Văn Toản (Toán) kết hôn
với bà Nguyễn Thị Duy và sinh hạ được 6 anh chị em, gồm:
1 - Nguyễn Bá Nhân, còn gọi là Nhơn, tức Mộng Châu (độc
thân, mất năm 1936)
2 - Nguyễn Thị Như Nghĩa, còn gọi là Ngãi (mất năm
1984)
3 - Nguyễn Thị Như Lễ (mất năm 1982, chính là nhân vật
từng đi vào tác phẩm Chơi giữa mùa trăng
của Hàn)
4 - Nguyễn Trọng Trí tức Hàn Mạc Tử.
5 - Nguyễn Đức Tín, sau đổi ra Nguyễn Quý Tín, rồi đổi
thành Nguyễn Bá Tín để thay quyền tộc trưởng của Nguyễn Bá Nhân (?).
6 - Nguyễn Gia Hiếu, tức Nguyễn Bá Hiếu, em út cả nhà
(mất năm 1991 tại Tp. Hồ Chí Minh).
Người ngoài thì có thể lẫn lộn hoặc thiếu sót. Như trường
hợp Thái Văn Kiểm viết Đất Việt trời Nam
(NXB Nguồn Sống, Sài Gòn 1960, tr.165) bảo rằng em út của Hàn Mạc Tử là... Nguyễn
Bá Tín! Chứ người trong gia đình, lại là ruột thịt, lập danh mục ắt hẳn khó
nghi ngờ về độ dung sai. Oái oăm thay! thực tế trái ngược với những điều chúng
ta suy luận!
Nếu có dịp ghé chơi thành phố biển Nha Trang (Khánh
Hoà), chắc bạn sẽ dạo thăm một kiến trúc uy nghi và đặc sắc toạ lạc bên đường
Thái Nguyên: nhà thờ chánh toà, tên thường gọi là nhà thờ Núi. Nơi đây lưu giữ
rất nhiều bình tro xương của kito hữu quá cố do thân nhân ký gởi; được bày biện
khá ngăn nắp. Trong số di cốt kia, bạn không mấy khó khăn khi tìm thấy tên tuổi
Mộng Châu Nguyễn Bá Nhân - anh cả của thi sĩ Hàn Mạc Tử. Bạn còn nhìn thấy cạnh
đó hai di cốt khác táng chung: Nguyễn Văn Thảo (sinh năm 1922) và Nguyễn Văn Hiền
(sinh năm 1923). Nào phải ai xa lạ, Thảo là em áp út, còn Hiền là em út của
Hàn!
Ngày lễ các thánh năm nay, 1-11-2000, tôi đem chuyện
này hỏi ông Nguyễn Bá Tín. Ông gật đầu thừa nhận:
- Anh hoàn toàn đúng. Hai đứa em tôi mất hồi 1923 -
1924, khi còn nhỏ xíu. Bởi vậy lúc viết sách, tôi đã để sót!
Chúng tôi sẽ còn mời bạn đọc quay lại nhà thờ Núi ở
Nha Trang trong một kỳ sau.
Kỳ trước, nói về các bút danh của Hàn Mạc Tử, chúng
tôi chưa nhắc một cái tên “độc chiêu” mà những ai mê thơ Hàn Mạc Tử có thể sẽ
nghĩ rằng người thơ phong vận như thơ ấy đời nào dám ký. Bút danh gì “dữ dằn”
thế nhỉ? Trật Sên. Tiếng Bắc có từ
tương đương là Tuột Xích.
Vâng, chính Hàn ký bút danh Trật Sên dưới một tác phẩm
“trào phúng... điếu” một nghị viên Viện Dân biểu Trung kỳ, đăng trong giai
phẩm Nắng Xuân ra đầu năm Đinh Sửu 1937. Lúc ấy, Hàn Mạc Tử đang là “nhà báo trẻ Sài thành” vừa trở lại Quy
Nhơn. Cùng tham gia giai phẩm, có nhiều gương mặt sau này trở nên quen thuộc với
đông đảo bạn đọc: Chế Lan Viên, Hoàng Diệp, Xuân Khai (tức Yến Lan), Phú Sơn (tức
Nguyễn Viết Lãm), Trọng Minh (tức Nguyễn Minh Vỹ, họ tên thật là Tôn Thất Vỹ)...
Bút danh đó dính dáng gì tới quan hệ bà con họ tộc của
Hàn Mạc Tử, sao đợi kỳ này mới nêu? Có đấy. Nhân vật trọng tâm mà Trật Sên giễu
cợt trong bài báo Quan nghị... gật thuở nào chính là nghị viên Nguyễn Văn Tôn.
Khi vung bút, Hàn Mặc Tử hoàn toàn không ngờ rằng Nguyễn Tú - con trai nhân vật
- trong tương lai sẽ là cháu rể hiếu thảo nhà mình!
Ông Nguyễn Bá Tín lấy làm cảm kích khi kể:
- Chính Nguyễn Tú là người tình nguyện đi bốc mộ anh
Trí ở Quy Hoà để cải táng vào đầu năm 1959. Nên nhớ thời đó, mọi người, kể cả cậu
em Bá Hiếu đều rất sợ bệnh phong!
Ông Nguyễn Tú trú tại khu Bùi Phát (Phú Nhuận, TP. Hồ
Chí Minh), trong một lần nhắc lại kỷ niệm xa xăm ấy đã triết lý:
- Đời người, đố ai học được chữ ngờ? Thì cứ lấy chuyện
bác Hàn Mạc Tử mà suy, hậu thế vẫn cứ liện tục giật mình vì chưa thể nào nắm bắt
được quy luật tồn tại của bao điều...bí mật!
Phanxipăng
*
Nguồn:
https://www.thivien.net/B%C3%AD-m%E1%BA%ADt-H%C3%A0n-M%E1%BA%A1c-T%E1%BB%AD/a-reply-mz8hO4-xm_bQYO5dbc_rLg
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :
Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ