Thầy Lê Hữu Thăng
TRƯỜNG
TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Dù ngôi trường ngày nay không còn tồn tại về mặt vật
chất, nhưng tên tuổi của trường vẫn lưu truyền mãi mãi trong con tim của người
dân Quảng Trị - nhất là trong lòng những thế hệ học sinh của ngôi trường được
vinh dự mang tên Chúa Tiên. Xin tạ ơn quý vị thân hào nhân sĩ, quý vị phụ huynh
học sinh của thập niên 1950 đã có tầm nhìn xa trông rộng, góp nhiều công sức
xây dựng nên trường Trung học Nguyễn Hoàng. Xin tạ ơn quý thầy cô giáo đã hy
sinh, tận tụy khai sáng trí tuệ, truyền đạt tư tưởng một nền giáo dục “nhân bản, dân tộc và khai phóng” để
hàng chục thế hệ học sinh của trường Nguyễn Hoàng được thành danh, thành người
hôm nay.
Vừa thoát khỏi ách đô hộ 80 năm của thực dân Pháp, một
nạn đói kinh hoàng xảy ra vào cuối năm 1944 đến tháng 5-1945 trên địa bàn các tỉnh
từ Quảng Trị trở ra khắp vùng Bắc Bộ, đã giết chết hàng trăm ngàn người dân nước
Việt. Xác người chết đói nằm rải rác trên các cánh đồng, trên những nẻo đường
thị xã. Tiếp theo là những năm tháng chiến tranh khốc liệt đã hủy diệt môi trường
sinh sống, đồng ruộng bỏ hoang, cơ sở cộng đồng, trường học bị bom đạn tàn phá.
Trong hoàn cảnh ấy, tháng 9-1952, tiếng trống khai giảng trường Trung học Quảng
Trị - tiền thân trường Trung học Nguyễn Hoàng đã vang lên như một giấc mơ huyền
thoại của thế kỷ, như một tia sáng nhiệm màu soi đường cho tương lai tuổi trẻ
Quảng Trị. Một ngày hội tưng bừng của phụ huynh học sinh và của cả cư dân trong
tỉnh.
Trong giai đoạn 1940 – 1944, nước ta đang lệ thuộc hệ
thống cai trị của thực dân Pháp nên việc học hành rất hạn chế. Mỗi quận hay tại
thị xã chỉ có một trường tiểu học. Học sinh tốt nghiệp bằng tiểu học có thể xin
làm việc tại các công sở hay làm thư ký, kế toán cho các cửa hàng kinh doanh,
buôn bán tiểu thủ công nghiệp. Chỉ có một số ít con em của các gia đình khá giả
mới có điều kiện vào Huế tiếp tục học các lớp ở bậc trung học.
Ưu tư với tiền đồ của thế hệ trẻ Quảng Trị, năm 1942,
bác sĩ Phan Văn Hy – một nhân sĩ của tỉnh nhà thời bấy giờ, đã thành lập một
trường trung học tư thục với danh xưng trường Trung học Tư thục Kỉnh Chỉ (Kỉnh Chỉ cũng là bút hiệu của bác sĩ trong
sinh hoạt văn học lúc bấy giờ).
Năm sau – 1943, một nhóm thầy giáo từ Huế ra Quảng Trị
mở thêm trường Trung học Tư thục Quảng Đức. Mặc dù bị hạn chế bởi thời cuộc,
nhưng hai trường trung học Kỉnh Chỉ và Quảng Đức đã hoạt động và phát triển khá
tốt đẹp, phần nào đáp ứng nhu cầu của xã hội và nền giáo dục tỉnh nhà. Không những
thế, ý tưởng của cụ Phan Văn Hy đã mở lối khai phóng một nền giáo dục nhân bản
cho thế hệ thanh niên sau 80 năm bị đô hộ bởi thực dân Pháp.
Tháng 8 năm 1945, cũng như cả nước, Quảng Trị thành
công trong việc giành lại chính quyền, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị ra đời.
Chính quyền mới vừa thành lập đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn với một cơ
cấu hành chính chuyển tiếp phức tạp và nhất là hậu quả của nạn đói năm 1945.
Tuy nhiên, chính quyền cũng đã tổ chức được một trường trung học công lập mang
tên trường Trung học Quảng Trị. Trường đã mở các lớp từ đệ thất đến đệ tứ (lớp
6, 7, 8, 9). Từ đó, cơ chế trường tư thục không còn nữa nên hai trường Kỉnh Chỉ
và Quảng Đức tự động giải thể.
Năm 1947, quân Pháp tái chiếm thị xã Quảng Trị và một
số vùng lân cận. Chính quyền, UBND Quảng Trị phải di tản ra Vĩnh Linh nên trường
Trung học Quảng Trị tạm ngưng hoạt động. Mãi đến năm 1950, hậu thân của trường
mới được hình thành gồm có 2 cụm trường.
Cụm trường Trung học Triệu Phong nhằm đáp ứng cho nhu
cầu học sinh thuộc hai huyện Hải Lăng và Triệu Phong. Cơ sở mà một căn nhà
tranh tại thôn Long Quang, huyện Triệu Phong. Tuy nhiên, trường là mục tiêu thường
bị máy bay hay pháo của địch bắn phá nên trường phải di chuyển từ nơi này đến
nơi khác, là kho hợp tác xã thôn Linh Yên, hay chùa thôn Đạo Đầu. Đến những năm
1951, 1952, quân Pháp mở chiến dịch càn quét, hủy hoại hoa màu; giết hại lương
dân cả một vùng Triệu Phong qua Hải Lăng, đến tận Kim Long, Kim Giao của Thừa
Thiên. Hủy diệt môi trường sống, không có tiếng chim hót, tiếng gà gáy sáng, tiếng
chó sủa… Một ký giả người Pháp, Bernard Fall, đặt tên con đường qua vùng này là
“con đường buồn hiu”. Riêng thôn Mỹ Thủy 400 người bị giết. Dân chúng ngơ ngác,
kinh hoàng, thầy trò thất lạc, một số trò tự bỏ trường về quê, một số về thị xã
Quảng Trị thi vào trường trung học Quảng Trị vừa mới thành lập, một số ra Bắc.
Trường Trung học Triệu Phong tan hàng từ đó.
Cụm trường Trung học Lê Thế Hiếu (là nguyên chủ tịch
UBND tỉnh Quảng Trị từ ngày đầu thành lập, sau đó bị tử thương trên đường công
tác). Cơ sở tại Cùa dành cho học sinh vùng Cam Lộ, Gio Linh, Hướng Hóa. Đến năm
19554, khi hiệp định Geneve được ký kết, vùng Cùa thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng
Hòa nên thầy giáo, học trò tự chọn cho mình hướng đi, ra Bắc hay vào Nam.
Tầm
nhìn xa trông rộng
Sau khi tình hình chiến sự tạm ổn, kinh tế khởi sắc, đời
sống cư dân có những bước tiến bộ, các công trình phúc lợi xã hội cũng phát triển.
Đặc biệt là ngành giáo dục, các trường tiểu học được xây dựng nhiều nơi đến cấp
thôn, cấp xã… nâng tỉ số học sinh tốt nghiệp tiểu học lên hàng trăm em trong mỗi
niên khóa, từ đó, phát sinh một nhu cầu khẩn thiết của xã hội. Những học sinh tốt
nghiệp tiểu học không có những lớp trung học để học tiếp, đa số phải quay về
nông thôn làm ruộng phụ giúp cha mẹ, học các nghề may mặc, thủ công sống qua
ngày. Số em thuộc gia đình khá giả, có điều kiện vào Huế học tiếp rất ít, chỉ
vài chục em thôi.
Khắc khoải với tương lai đất nước, với những thế hệ trẻ
học sinh quê hương, một số thân hào, nhân sĩ, phụ huynh như các ông: Hồ Duy
Tinh, Phạm Tri, Nguyễn Hữu Hiệt, Lữ Mộng Liên, Đặng Văn Tắc, Phan Quang Đãi, Hồ
Tiềm, Nguyễn Thuật… đã nhóm họp, bàn bạc để tìm phương hướng giải quyết, thành
lập ban vận động để mở một trường trung học.
Mùa hè năm 1951, ban vận động đã xin được phép mở trường
Trung học Tư thục Quảng Trị và mời ông Hồ Văn Hải, nguyên là Tham tá Công chánh
làm hiệu trưởng. Chính quyền tỉnh đã hỗ trợ, cấp cho một lô đất ở vườn hoa cũ,
bên cạnh bờ sông, đối diện đình Thạch Hãn. Trên khu đất này sẵn có một dãy nhà
tranh, nguyên trước là Dạ Lữ điếm, gồm có 3 phòng. Phụ huynh đóng góp kinh phí
xây thêm một phòng nữa. Như vậy cơ sở ban đầu trường có 3 phòng học và 1 văn
phòng, tổ chức được 2 lớp đệ thất với khoảng 100 học sinh; một lớp đệ lục có
khoảng 30 học sinh. Ban giảng huấn gồm có 3 giáo sư chính là các ông Thái Mộng
Hùng, Lê Bích, Lê Văn Quýt. Ngoài ra, trường có mời thêm một số vị công chức dạy
giờ như các ông Phan Minh Phụ, Lê Đình Trinh, Lê Đình Ngân, Nguyễn Vọng.
*
Hàng ngồi, từ trái qua : Quý Thầy :
-
Phan Văn Minh, Thái Mộng Hùng ( HT 57-73 ), Nguyễn Ích Xuân (GT) Nguyễn Quang
Yên (vp) Chu Duy Khánh (HT 55-57), Hồ Văn Túy (vp ), Trần Công Hiệu (dạy Hán
Văn), Hà Thượng Tấn, Nguyễn Cửu Triệp.
*
Hàng đứng, trái qua :
-
Hoàng Văn Gioang (VP) Dương Thanh Bình (tức Dương văn Đẩu, nhạc) Nguyễn Ngọc
Minh (dạy toán), Cung Thế Mỹ (dạy Toán), Phạm Lộc, Nguyễn Hứa Thảo, Nguyễn Văn
Thị , Lâm Sĩ Hồng, Nguyễn Quang Nghĩa) Bác Lê Quang Phúng (đại lão cai trường,
có mặt từ thuở ban đầu, được rất nhiều người yêu mến)
Ghi
chú thêm :
1/
Thầy Nguyễn Quang Nghĩa là con trai của Thầy Nguyễn Quang Yên (GT).Thầy Nghĩa
vô NH dạy rồi về đi học ĐHSP, tốt nghiệp xong, về NH dạy tiếp.
2/
Thầy Phan Văn Minh vô dạy, đến 1958 về đi học SP, ra trường dạy TH Hàm Nghi , không
về NH nữa.
Trường
trung học Nguyễn Hoàng được khai sinh
Đầu niên khóa 1952 – 1953, dưới sự vận động của Hội phụ
huynh học sinh và đề nghị của tỉnh, trường Trung học Tư thục Quảng Trị được Bộ
Giáo dục công lập hóa thành trường Trung học Quảng Trị, gồm có 5 lớp: 2 lớp đệ
thất, 2 lớp đệ lục và 1 lớp đệ ngũ. Ông Tôn Thất Dương Thanh – Trưởng ty tiểu học
vụ được đề cử kiêm nhiệm hiệu trưởng của trường.
Vào niên khóa 1953 – 1954, chấp thuận lời đề xuất của
Hội đồng Giáo sư trường Trung học Quảng Trị: Chúa Nguyễn Hoàng phải được tôn
vinh xứng đáng với sự nghiệp mở rộng bờ cõi của Ngài, Bộ Giáo dục có quyết định
đổi tên trường Trung học Quảng Trị thành trường Trung Học Nguyễn Hoàng theo Nghị
định số 95/GD-NĐ ngày 6-5-1954. Cùng vào thời điểm và quyết định trên, các trường
được chính thức công nhận là trường trung học công lập như trường Trung học Đào
Duy Từ ở Đồng Hới, trường Phan Châu Trinh ở Đà Nẵng, trường Trần Quý Cáp ở Hội
An, trường Võ Tánh ở Nha Trang, trường Duy Tân ở Phan Rang và trường Phan Bội
Châu ở Phan Thiết.
Con đường từ Trần Hưng Đạo rẽ vào trường, là ranh giới
giữa đình làng Thạch Hãn và trường Nguyễn Hoàng, cũng được đặt tên là đường
Nguyễn Hoàng từ đó.
Ông Tôn Thất Dương Kỳ được bổ nhiệm làm hiệu trưởng
thay thế ông Tôn Thất Dương Thanh.
Niên khóa 1954 – 1955, lần đầu tiên trường Nguyễn
Hoàng có khoảng 20 thí sinh tham dự thi Diplome (Trung học đệ nhất cấp). Đặc biệt
trong kỳ thi này, học sinh thi viết tại Quảng Trị, phần thi vấn đáp phải vào Huế
thi. Thời đó, đường bộ Quảng Trị - Huế không an toàn, các thí sinh được Hội phụ
huynh mua vé máy bay khứ hồi vào Huế để thi. Có 1 học sinh thi rớt vấn đáp kỳ đầu
nhưng rồi cũng đậu vào kỳ 2. Sự kiện trên thể hiện tinh thần lo lắng, quan tâm
của phụ huynh dành cho em.
Niên khóa 1955 – 1956, ông Chu Duy Khánh – một giáo sư
lão thành được đề bạt làm hiệu trưởng, thay thế ông Tôn Thất Dương Kỳ xin
thuyên chuyển đến nhiệm sở khác. Trong niên khóa này, Bộ Giáo dục đã cấp kinh
phí để xây trường mới gồm 8 phòng học, 1 tầng trệt và 1 lầu ở khu đất thuộc
khuôn viên Sân vận động.
Niên khóa 1956 – 1957, trường dọn về cơ sở mới. Lúc
này trường có 11 lớp và 500 học sinh.
Niên khóa 1957 – 1958, ông Thái Mộng Hùng được đề bạt
làm hiệu trưởng thay thế ông Chu Duy Khánh về hưu.
Thăng trầm theo thời cuộc
Cuối những năm của thập niên 50, đời sống sinh hoạt của
dân chúng đồng bộ phát triển. Các quận huyện đã có các trường lớp trung học đệ
nhất cấp như: Đông Hà, Cam Lộ, Gio Linh, Triệu Phong, Hải Lăng cùng với các trường
tư thục như: Thánh Tâm, Bồ Đề, Phước Môn, Bố Liêu, Đắc Lộ, Bán công Đông Hà,
Bán công Cam Lộ… trường Nguyễn Hoàng cũng đã liên tục mở rộng để đáp ứng nhu cầu
học tập của con em tỉnh nhà.
Niên khóa 1958 – 1959: Mở thêm 5 lớp đệ thất và 2 lớp
đệ tam.
Niên khóa 1962 – 1962: Mở 2 lớp đệ nhất, kiện toàn quy
chế của một trường trung học đệ nhị cấp.
Quy mô trường lớp, số học sinh, giáo sư tăng dần theo
thời gian, niên khóa 1970 – 1971 có tất cả 60 lớp, hơn 3.000 học sinh và 100
giáo sư cùng nhân viên.
Cũng trong niên khóa này, Bộ Giáo dục cho phép trường
Nguyễn Hoàng mở thêm trường nữ Trung học Quảng Trị - cơ sở tại quận Mai Lĩnh, nhưng
vì thiếu hiệu trưởng nên tạm thời do trường Nguyễn Hoàng quản lý.
Năm 1972, chiến trường Quảng Trị trở nên ác liệt. Dân
chúng tìm đường tháo chạy, người hướng ra vùng Đông Hà, Gio Linh; kẻ tìm về
phương Nam, vào Huế, vào Đà Nẵng. Quảng Trị hoang vắng bóng người, dành trận địa
cho đôi bên giải quyết chiến lược. Hàng triệu tấn bom đạn đã rải thảm trên
thành phố nhỏ, tất cả các cơ ngơi văn hóa, di tích cổ kính, đình chùa, miếu mạo,
nhà thờ và các công trình công ích xã hội cùng hàng trăm ngàn ngôi nhà của dân
chúng đều bị san bằng, thiêu rụi… trong đó có ngôi trường Nguyễn Hoàng đã tồn tại
qua bao năm – nơi đã đào tạo hơn 20.000 học sinh cho xã hội và là niềm tự hào của
người dân Quảng Trị.
Sau mấy tháng dân Quảng Trị tạm cư ở Đà Nẵng, sinh hoạt
của trường được phục hồi. Ban giám hiệu đã tổ chức lại được 40 lớp, tạm thời
dùng các doanh trại bỏ trống của quân đội để làm cơ sở học tập. Lúc bấy giờ,
ông Thái Mộng Hùng được đề cử làm Chánh sự vụ Sở học chánh Quảng Trị (Trưởng ty
giáo dục), ông Hoàng Văn Liệu – một giáo sư của trường được đề bạt làm hiệu trưởng
trường Nguyễn Hoàng.
Năm 1974, dân Quảng Trị hồi cư, thầy trò cũng lên đường
về quê cũ. Ngôi trường Nguyễn Hoàng mới khá hoành tráng, khang trang, được xây
dựng trên khu Thị tứ Hải Lăng để thầy trò tiếp tục đến trường dạy và học.
Nhưng chẳng được bao lâu, vào tháng 3 năm 1975, chiến
sự tiếp tục bùng nổ trên mảnh đất nghèo khó Quảng Trị. Lại một cuộc di tản, thầy
trò lại bỏ trường mà đi và từ đó cũng là ngày trường Trung học Nguyễn Hoàng bị
mất tên trên quê hương Quảng Trị - nơi Chúa Nguyễn Hoàng đặt bản doanh đầu tiên
cho cuộc Nam tiến, mở mang bờ cõi cho đất nước trọn vẹn một hình cong chữ S.
Sau này, trên nền đất cũ trường Nguyễn Hoàng xưa, có
xây dựng lại một ngôi trường mới, nhưng lại được đặt tên là trường Trung học Phổ
thông Thị xã Quảng Trị.
Trường Trung học Nguyễn Hoàng từ khi thành lập (1952)
đến tháng 4/1975 là một sự nghiệp giáo dục vỏn vẹn 24 năm, thật quá ngắn ngủi
so với 400 năm (1552 – 1975) lịch sử hình thành tỉnh Quảng Trị. Song, việc khai
sinh trường Trung học Nguyễn Hoàng là một cột mốc thời gian đặc biệt đánh dấu sự
khai phá, mở đường cho một nền giáo dục vị nhân sinh, mang tính nhân bản; mở
mang trí tuệ, gắn liền với việc hình thành, xây dựng nhiều thế hệ học sinh vừa
có tri thức hữu dụng cho xã hội, vừa có nhân cách xem trọng đạo nghĩa. Bởi vậy,
hơn 20.000 học sinh ngày xưa của ngôi trường này, sau khi rời trường, dù sống ở
nước ngoài hay trong nước, dù có bằng cấp học vị cao hay chỉ là người công dân
bình thường vẫn luôn làm rạng rỡ cho quê hương, dòng tộc.
Dù ngôi trường ngày nay không tồn tại về mặt vật chất,
nhưng tên tuổi của trường vẫn lưu truyền mãi mãi trong con tim của người dân Quảng
Trị - nhất là trong lòng của những thế hệ học sinh của ngôi trường được vinh dự
mang tên Chúa Tiên – người đã để lại một sự nghiệp lớn lao, lẫy lừng trong việc
mở mang, khai phá vùng đất phương Nam của đất nước ta.
Kinh xin tạ ơn quý vị thân hào nhân sĩ, quý vị phụ
huynh học sinh của thập niên 1950 đã có tầm nhìn xa trông rộng. Quý vị đã quan
tâm, ưu tư đến sự nghiệp giáo dục cho quê nhà trong thời kỳ phát triển phôi
thai nhất và đã đóng góp nhiều công sức xây dựng nên trường Trung học Nguyễn
Hoàng – niềm tự hào nhất cho tất cả con dân Quảng Trị.
Xin tạ ơn quý thầy cô giáo đã hy sinh, tận tụy khai
sáng trí tuệ, truyền đạt tư tưởng một nền giáo dục “nhân bản, dân tộc và khai
phóng” để hàng chục thế hệ học sinh của trường Nguyễn Hoàng – Quảng Trị được
thành danh, thành người hôm nay.
Lê Hữu Thăng
* GHI CHÚ:
HIỆU TRƯỞNG:
Niên
khóa 1952 – 1953: Ông Tôn Thất Dương Thanh
Niên
khóa 1954 – 1955: Ông Tôn Thất Dương Kỳ
Niên
khóa 1955 – 1956: Ông Chu Duy Khánh
Niên
khóa 1956 – 1972: Ông Thái Mộng Hùng
Niên
khóa 1973 – 1975: Ông Hoàng Văn Liệu
GIÁM HỌC:
Niên
khóa 1963 – 1964: Ông Lê Vĩnh Kiến
Niên
khóa 1965 – 1966: Ông Vĩnh Quyền
Niên
khóa 1968 – 1972: Ông Nguyễn Thiện
Niên
khóa 1973 – 1975: Ông Cái Ngọc
GIÁM THỊ:
Niên
khóa 1959 – 1960: Ông Nguyễn Ích Xuân
Niên
khóa 1963 – 1964: Ông Tống Viết Mẫn
Niên
khóa 1966 – 1972: Ông Hồ Ngọc Thanh
Niên
khóa 1972 – 1973: Ông Phan Văn Cẩn
Niên
khóa 1973 – 1975: Ông Trần Văn Khảm
Thầy Lê Đình Ngân
Thầy Lê Hữu Thăng
CẢM ĐỘNG VÀ CẢM PHỤC KHI ĐỌC BÀI VIẾT NÀY .
Trả lờiXóaVÀ NAY THỰC SỰ MỚI HIỂU BIẾT VỀ SỨC RƯỚN ĐÁNG KINH NGẠC CỦA NGƯỜI QUẢNG TRỊ .
TẠI LITTLE SG HỘI CƯU HOC SINH NGUYỄN HOÀNG VẪN CÒN SINH HOẠT CHUNG VỚI CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC TẠI MIỀN NAM .TRÔNG HỌ RẤT TƯƠI BÊN CẠNH TRẦN QUÝ CÁP QNAM VÀ NỮ TRUNG HỌC GIA LONG SAIGON . XIN CÁM ƠN
Cảm ơn bác Lai Quang Nam ghé thăm và ghi còm trân trọng. Những ngôi trường như Nữ Trung Học Gia Long Sài Gòn, Trung Học Quốc Học Huế, Nữ Trung Học Đồng Khánh Huế, Trung học Trần Quý Cáp Quảng Nam, Trung Học Nguyễn Hoàng Quảng Trị, Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng... cùng những ngôi trường khác của nền giáo dục VNCH với nguyên tắc giáo dục là "nhân bản", "dân tộc", và "khai phóng" đã đào tạo rất nhiều nhân tài cho đất nước
Trả lờiXóa