Trang

Thứ Ba, 11 tháng 12, 2018

VỀ THƠ BÙI GIÁNG, NÓI THẾ NÀO CHO PHẢI ? - Trần Nhuận Minh


        
                Nhà thơ Trần Nhuận Minh


Tiểu sử Nhà thơ Trần Nhuận Minh:
Nhà thơ Trần Nhuận Minh quê ở làng Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Bút danh: Trần Nhuận Minh, Trần Bình Minh
Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1982, uỷ viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam.
Hiện ông đang sống và viết tại Hạ Long, Quảng Ninh.
Nhà thơ Trần Nhuận Minh là anh ruột nhà thơ Trần Đăng Khoa (người nổi tiếng là thần đồng thơ văn ở miền Bắc những năm 1966-1971, từ khi mới tám tuổi)


       VỀ THƠ BÙI GIÁNG, NÓI THẾ NÀO CHO PHẢI ?
                                                                   Trần Nhuận Minh
                                                                                 
      Tôi đọc thơ Bùi Giáng cũng được khoảng 2 -300 bài và tương đối hệ thống trong mươi năm trở lại đây.
      Tôi cũng đọc rải rác hầu hết các bài viết về Bùi Giáng. Nói chung là hơi giông giống nhau của nhiều tác giả. Có người so Bùi Giáng với Nguyễn Du. Có người cho rằng, phải đến Bùi Giáng, thì thơ Việt Nam mới có biển có trời. Sự sáng tạo trong ngôn ngữ thơ Bùi Giáng là rất rõ, nhưng ca ngợi đến mức ấy, tôi cho là quá lời. Và như thế, dù không muốn, cũng là cách làm hại ông.

       
                             Nhà thơ Bùi Giáng

      Gần đây, tập sách Bùi Giáng trong cõi người ta,  576 trang, do nhà Lao động xuất bản năm 2008, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây sưu tầm biên soạn và phát hành, nhân 10 năm Bùi Giáng (1926 – 1998) qua đời. Ở tập sách này, trong 30 - 31 bài, ca ngợi Bùi Giáng, có đến 7 – 8 bài coi Bùi Giáng là thiên tài, đặc biệt trong sáng tạo ngôn ngữ, là người nhảy múa trong chữ nghĩa, với những thăng hoa, huyền ảo, lộng lẫy sắc hương, vi diệu mênh mang vô tận vô cùng… Tôi nghĩ cũng không đến mức như thế. Trong đó, hai bài của nhà văn Đặng Tiến: Sơ thảo tiểu truyện Bùi Giáng, Bùi Giáng nguồn xuân, viết về tập thơ đầu tay của Bùi Giáng (được tái bản tại Hà Nội), bài Trường phái Bùi Giáng của nhà thơ Thu Bồn và bài Bùi Giáng trong cõi người ta của nhà thơ Ý Nhi, viết ngay sau ngày mất của Bùi Giáng, là những bài thuyết phục tôi hơn cả. Chỉ duy nhất có một bài nói khác, chính là bài của nhà văn Nguyễn Quang Lập. Tôi xin phép ông trích lại nguyên văn.
      Theo Nguyễn Quang Lập: “Kỳ lạ, gặp ai, hễ nhắc đến Bùi Giáng là khen nức nở, tuyệt không thấy một người nào chê, còn mình thì thực sự không thấy hay, ngoại trừ mấy câu, như ông vẫn nói là theo điệu du côn, đại loại Sài Gòn, Chợ Lớn rong chơi / Đi lên đi xuống đã đời du côn thì hay. Nhưng bảo là sâu sắc thì mình chịu. Thơ đó mấy ông nhà thơ dân gian Bắc Kỳ, xứ Nghệ siêu hơn nhiều. Mình cứ nghi nghi hay người ta đua nhau sùng bái thơ văn ông theo kiểu hoàng đế cởi truồng, hi hi, nhưng không dám nói” (sách đã dẫn, trang 251).
   “Hoàng đế cởi truồng” là nhân vật vua trong truyện Bộ quần áo mới của Hoàng đế của nhà văn Đan Mạch nổi tiếng, Hans Christian Andersen.
     Bùi Giáng là một nhà thơ rất được chú ý, với nhiều cách hiểu khác nhau. Theo tôi, ngôn ngữ thơ Bùi Giáng rất phong phú, sinh động, tự nhiên, nhưng không được đẹp như nhiều người nói. Ngôn ngữ đẹp bao giờ cũng mang đến cho người đọc sự cảm thụ về thẩm mỹ. Tôi hoàn toàn không thấy điều đó, khi đọc những câu sau:
Nếu ngày mai tôi chết đi
mà cô không thể giỏ cho một giọt nước mắt
Thì cô có thể giỏ cho một giọt nước tiểu cũng được
(Nhớ giỏ trên mồ)
Ở dưới suối vàng, tôi sẽ ngậm cười đón nhận
(Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây)
     Cô ở đây là nữ nghệ sĩ Kim Cương, người mà Bùi Giáng yêu một cách si mê và sùng kính. Đoạn thơ trên dẫn theo nhà văn Nguyễn Quang Lập trong bài Nhớ Bùi Giáng, in trong tập sách  Bùi Giáng trong cõi người ta, đã nêu ở trên.
     Ai cũng biết câu dưới cùng của đoạn trên là nguyên văn một câu thơ của Nguyễn Du.
     Ghi theo lời “bình” của nhà văn Cung Tích Biền, Nguyễn Quang Lập viết tiếp: “có con nào thì ăn tươi nuốt sống ngay, chờ đến khi chết, nó tụt quần đái cho vài giọt (trên mồ) thì sung sướng cái nỗi gì. Mà mình đã nằm trong hòm rồi, nó đái trển (trên ấy), cũng có thấy bướm nó đâu” (sách đã dẫn). Những bài thơ như thế chỉ làm tôi thấy… mất vệ sinh và nhà thơ đã tự hạ mình thấp đến mức thảm hại như vậy thì làm sao để người đọc kính trọng được. (Bốn chữ “trên mồ”, “trên ấy” là tôi ghi thêm cho rõ).
      Hầu hết những câu thơ lục bát, được coi là sáng tạo huy hoàng nhất của Bùi Giáng, như nhiều người đề cao, theo tôi, đều có cái phong vị của các câu thơ Nôm trong các truyện thơ Nôm khuyết danh thế kỷ XIX, nhưng câu thơ của Bùi Giáng có cá tính, có thần thái hơn. Thơ Bùi Giáng, đọc ít bài thì thấy có nét riêng, lý thú, nhưng đọc một mạch hàng trăm bài trong một hai tháng liền, như tôi đã đọc gần đây, thì lại thấy có đến hàng trăm câu cũ kỹ, mòn sáo, đều đều, dài dòng, lai nhai, tạp nham, trùng lặp. Đôi khi gặp những câu khác thường, có cảm giác như Bùi Giáng bị chứng “tâm thần phân lập” hay một bệnh nào đó tương tự như thế.  Hàn Mạc Tử  cũng có những câu thơ viết trong bệnh hoạn, có câu chỉ làm cho người đọc thấy “ ghê ghê ”… nhưng cũng có câu thăng hoa đến mức phi thường… Còn với Bùi Giáng, cả 2 trường hợp trên, nói chung là không…
      Bùi Giáng đưa nguyên văn hoặc hầu như nguyên văn phải đến dăm bảy chục câu thơ Kiều vào thơ ông, theo nhiều kiểu cách khác nhau:

                 Mặc người
                 mưa Sở mây Tần
                 Riêng mình gìn giữ
                 Một lần đầu tiên

Hoặc:
                 Rừng phong thu đã nhuộm màu
                 Quan san ngần ấy tư trào ngần kia

      Tôi thống kê được đến hơn 200 câu mà tôi cho là Bùi Giáng viết vội vàng, viết lấy được, vô cùng nhiều những câu trùng vần, không vần hoặc nhịu vần... Chưa kể câu non, ý lép, na ná như nhau. Hoàn toàn không có “ý tại ngôn ngoại”. Sau này mới biết là Bùi Giáng viết tại chỗ liền một mạch có khi “hàng trăm bài”, rồi “nhà in cứ thế sắp chữ” luôn, không sửa chữa (sách đã dẫn).

                  Uống xong ly rượu cùng nhau
                  Hẹn rằng mai sẽ quên nhau muôn đời

là trùng vần, dù ý tưởng trong câu thì rất đáng chú ý. Và không vần, đặc điểm này thường gặp trong thơ lục bát của Bùi Giáng:

                 Tuy nhiên anh suốt suối vàng
                 Vẫn mong em còn suốt cõi trần vui chơi

Thậm chí có đoạn chỉ có 4 câu:

                 Trinh nữ em có mặc áo quần
                 Mà không ắt hẳn là quần thật xinh
                 Nếu như em chẳng mặc quần
                Thì ông trời ắt càng mừng rỡ hơn

mà câu 1 và 2 trùng vần; câu 2, 3 và 4 không vần. Trong 3 câu mà có đến 3 chữ quần. Viết về quần, nhất là quần phụ nữ, câu chữ phải rất cẩn trọng. Viết như thế phải nói là lười biếng và cẩu thả. Đó là những điểm kỵ của thơ lục bát mà một cây bút phong trào, nghiệp dư, cũng phải tránh. Vậy mà vẫn có nhà phê bình khen là hay là đẹp, là “sáng tạo thiên tài” thì tôi chịu không hiểu nổi.
     Đọc đến đây, có thể có bạn sẽ cự lại: Thôi Hiệu đời Đường trong 3 câu cũng 3 lần lặp lại 2 chữ  Hoàng Hạc đó sao:

            Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
            Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
            Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản…

            (Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
            Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
            Hạc vàng đi mất từ xưa…)
                                              (Tản Đà dịch)

      Chưa bàn việc Tản Đà dịch sang thơ lục bát như thế làm mất cái hay, cái độc đáo của nguyên tác, nhất là về âm hưởng, nó là cái  khí của thơ. Hãy nói 2 đoạn thơ này có điều khác nhau: Thôi Hiệu có dụng công nghệ thuật để câu thơ thành kiệt tác mà Bùi Giáng thì không.
      Hoặc nhịu vần:

             Viết thơ lạc dấu sai dòng
             Viết trong tức tưởi sợ đồng lúa mong

       Tất nhiên ở đây, mới chỉ bàn riêng về vần trong thơ lục bát Bùi Giáng, vốn là yếu tố nghệ thuật rất quan trọng trong thơ lục bát Việt Nam nói chung.
      Đoạn thơ sau đây cũng không hay như có nhà phê bình đã tán tụng. Tôi dẫn ra để thấy điều tôi rất thú ở thơ Bùi Giáng là ông xưng “Trẫm”. Bùi Giáng là nhà thơ duy nhất ở Việt Nam xưng “Trẫm”:

          Hỡi cô bán phở dịu dàng
          Đừng nên nói bậy hai nàng buồn ta
          - Trẫm từ lịch kiếp phôi pha
          Tái sinh bất chợt mà ra phụ lòng

trong khi các vua Trần, vua Lê làm thơ, chỉ xưng “ta”. Ví như thơ của vua Trần Thánh Tông: “Hữu nhân vấn ngã hà tiêu tức?” (Có người hỏi ta sinh diệt thế nào?); thơ của vua Lê Thánh Tông: “Dư xuất lục quân, duyệt binh vu Bạch Đằng giang thượng…” (Ta xuất sáu quân, duyệt võ trên sông Bạch Đằng…).
      Tôi cũng rất thú cái chất vui mà Bùi Giáng gọi là “cà chớn”, “vui thôi mà”.
     Hai câu thơ thực khó quên:

            Sáng nay bao tử mơ mòng
            Cà phê bên nọ, cháo lòng bên kia…

       Có nhà phê bình gọi đó là “cái vui vĩ đại” thì không biết có đúng hay không?
      Và càng nghĩ, càng thương Bùi Giáng trong bộ dạng: “Ông lang thang đây đó, ngủ ở bất cứ đâu, dưới trời sao, dưới một gầm cầu, hay dưới một mái hiên. Có những lúc lại thấy ông đeo một xâu chuỗi toàn giày dép và áo quần phụ nữ quanh cổ” (sách đã dẫn, trang 358). Có nhà phê bình cho rằng “cách sống đó là lý tưởng”, và chỉ “mong mình được sống như vậy”, thì không biết nói thế có thật lòng với Bùi Giáng hay không?
    Tôi rất thích câu thơ này:

         Dạ thưa xứ Huế bây giờ
         Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương…

    Tự nhiên và sang trọng. Tưởng rất dễ làm nhưng không phải Bùi Giáng, tôi e là khó có ai làm được. “Núi Ngự sông Hương” thì đã có sẵn trong ca dao rồi. Phong vị của câu thơ có lẽ là ở hai chữ Dạ thưa rất Huế chăng? Bởi chỉ bóc hai chữ ấy ra, câu thơ khác hẳn, mất hết thần thái và trở nên thông thường. Tôi nghĩ, đây có lẽ là câu thơ hay nhất trong bài thơ chỉ có hai dòng (như trên) Dạ thưa xứ Huế bây giờ của Bùi Giáng và cũng là hai dòng thơ có thể xếp vào hàng những câu thơ lục bát Việt Nam đẹp nhất viết về đất nước.
     Tập sách Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam, một công trình biên khảo dầy dặn, tâm huyết, khá thấu đáo và rất công phu của nhà thơ – soạn giả Nguyễn Vũ Tiềm. Theo một tờ báo thống kê, có 10 nhà thơ được chọn nhiều nhất, từ 29 đến 53 câu, mỗi câu thường là 2 dòng thơ (tờ báo này ghi, tôi được chọn đứng hàng thứ 10). Dĩ nhiên số lượng nhiều ít cũng chỉ có ý nghĩa tương đối mà thôi. Thơ Bùi Giáng lọt vào “mắt xanh ” của soạn giả hơi ít, chỉ có 9 câu, mà câu này, rất tiếc lại không có trong tập. Tôi chợt nhớ Nguyễn Bính, khi Nguyễn Bính viết (chép theo trí nhớ):

            Quê tôi có gió bốn mùa
            Có giăng giữa tháng, có chùa quanh năm...

     Vì cách lập tứ, Nguyễn Bính và Bùi Giáng giống nhau, nhưng thích thì tôi thích câu thơ Bùi Giáng hơn, nó có giọng điệu, có sắc thái hơn. Nghe âm hưởng cũng sang hơn.  Có câu thơ tôi nhớ vì nó “rất Bùi Giáng”. Cách chơi chữ giản dị mà lại lạ, tạo được sự ám ảnh:

            Bây giờ riêng đối diện tôi
            Còn hai con mắt khóc người một con…

        Bùi Giáng là một trong những đại diện xứng đáng nhất của thơ miền Nam trước 1975. Viết về thơ miền Nam nói riêng, thơ Việt Nam nói chung, giai đoạn 1962 – 1985 mà không nhắc đến Bùi Giáng cũng là một thiếu sót. Nhưng ca ngợi Bùi Giáng theo kiểu “nói lấy được”, như đã dẫn ở trên, cũng là điều không nên, và tôi e rằng: điều đó có  cái gì như là ở ngoài văn học, ở ngoài cả  thơ của  chính Bùi Giáng.
                                                                         Trần Nhuận Minh

Nguồn:
Báo VĂN NGHỆ TP HỒ CHÍ MINH số 276 ngày 17/ 10/ 2013
Báo VĂN NGHỆ THÁI NGUYÊN số 33 (509) ngày 20/ 11/ 2013
Báo VĂN NGHỆ số 51 ( 2810) Thứ Bảy 21/ 12 /2013

2 nhận xét:

  1. Phản biện bài viết này của nhà thơ Trần Nhuận Minh, ông Nguyễn Đình Bổn viết một status trên facebook:

    TRẦN NHUẬN MINH LÀ AI? ĐỌC HỆ THỐNG BÙI GIÁNG LÀ ĐỌC NHƯ THẾ NÀO?
    https://www.facebook.com/notes/.../trần-nhuận-minh-là-ai...là.../594908970563425/

    Trả lờiXóa
  2. Loại như Trần Nhuận Minh biết bao giờ hiểu được Bùi Giáng?

    Trả lờiXóa

POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :

Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ