“Chính quyển nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819) đến Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847),Tự Đức (1847-1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính vì khiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế”.
Năm 1558, Đoan Quận công Nguyễn Hoàng xin vào Nam trấn thủ đất Thuận Hóa , ” Ô châu ác địa” không ngờ là mảnh đất dung thân, nơi các Chúa Nguyễn đứng vững và mở đầu cuộc Nam tiến của dân tộc Việt suốt hai thế kỷ, trải chín đời chúa. Văn thần triều Lê – Trịnh là Lê Quý Đôn mặc dù đứng trên lập trường đối nghịch cũng viết những nhận xét khách quan về Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) trong Phủ Biên tạp lục như sau:
“Đoan Quận Công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn 10 năm, chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dụng pháp công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quan dân hai xứ (Thuận Hóa - Quảng Nam) thân yên tín phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng …”.
… (Năm 1570) Bấy giờ nhân dân các huyện ở Thanh Hoa tan tác tháo chạy, ruộng đồng bỏ không cày cấy, nhiều người bị chết đói…… (Năm 1571) Năm ấy đất Thanh Hoa mất mùa, dân đói to, nhiều người xiêu giạt…… (Năm 1572) Năm ấy, các huyện ở Nghệ An, đồng ruộng bỏ hoang, không thu được hạt thóc nào, dân đói to, lại bị bệng dịch, chết đến quá nửa, nhiều người xiêu giạt, kẻ thì lần vào Nam, người thì giạt ra Bắc, trong hạt rất tiêu điều… (Năm 1589) Ngày 15, mặt trăng phạm vào sao Tuế. Đại hạn, Gạo kém. Nhiều người xiêu tán… (Năm 1592) Tháng 7 ngày mồng 6, lụt thình lình, nước sông chảy tràn, gò đống bị ngập, đạo Thanh Hoa lúa má mất mùa. Ngày 15 lại bị lụt. Dân miền Tây Nam cũng bị đói kém… (Năm 1594) Bấy giờ nhân dân các huyện ở Hải Dương mất mùa to, đói kém đến ăn thịt lẫn nhau, chết đói đến một phần ba… (Năm1595) Bấy giờ nhân dân mất mùa, đói to, lại thêm ôn dịch, người chết xác gối lên nhau… (Năm1596) Bấy giờ đại hạn, thóc lúa vụ chiêm đều không thu được, đầm phá khô cạn, cây cỏ úa vàng, hoa không kết trái. Trộm cướp quần tụ trong dân gian, bọn lớn đến bảy tám trăm đứa, bọn nhỏ cũng không dưới vài trăm, ngày đêm đốt phá nhà cửa, cướp đoạt của cải gia súc, thủy bộ không thông, đường sá bế tắc, dân đói nhiều, chết đến quá nữa…
Chính sách trọng thương của chúa Nguyễn đã khuyến khích các thương nhân nước ngoài vào làm ăn buôn bán khiến các thương cảng Thanh Hà, Hội An ở Đàng Trong trở nên sầm uất phát đạt lôi kéo theo các nghề thủ công, tiểu thủ công như trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, gốm sứ, nghề gỗ, đóng tàu… phát triển đến cực thịnh. Nguồn thu thuế, lợi tức từ việc trao đổi mua bán hàng hóa chính là nguồn hỗ trợ chu cấp quân lương cho chúa Nguyễn trong cuộc chiến với Đàng Ngoài. Chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Minh khiến hàng hóa Nhật muốn vào Trung Quốc và ngược lại đều phải trung chuyển qua các cảng Đàng Trong, vô tình khiến các thương cảng Hội An Thanh Hà càng thêm sầm uất. Số tàu buôn Trung Hoa đến thương cảng Hội An từ 1647 đến 1720 nhiều hơn số tàu đến bất cứ nước nào khác trong vùng (Bắc Hà 63 tàu, Chân lạp 109 tàu, Xiêm 138 tàu, Indonesia 90 tàu và Hội An là 203 tàu).
“…nhìn lại trong sự phát triển quyền lực của họ Nguyễn, căn bản tổ chức tuy là theo khuôn mẫu của một chính quyền phương Đông nhưng trong tình thế riêng biệt của vùng và của thời thế, yếu tố thương mại đã có dáng quan trọng đến mức chứa chấp cả sự hưng vong của dòng họ. Không phải chỉ vì nhu cầu tự vệ với Trịnh mà Nguyễn bị buộc phải củng cố phát triển. Trong một trăm năm ngưng chiến, họ vẫn trên đà gia tăng cường thịnh để có những toan tính dòm ngó đất Đàng Ngoài, và chuẩn bị xưng vương lập nước …”.
“…Theo ý tôi, sự liên kết thân thiết với Nam Hà sẽ mở ra một con đường lớn cho việc thực hiện mục tiêu này. Đất nước này sẽ cung cấp nhiều mặt hàng có giá trị thích hợp với thị trường Trung Quốc, và sẽ mở ra một lối thoát rất lớn để tiêu thụ nhiều hàng hóa của chúng ta, và vị trí của nó nằm trên con đường đi thẳng từ Anh tới Trung Quốc là một điều không thể không suy nghĩ. Chẳng hạn như những khu rừng Nam Hà sẽ cung cấp nhiều loại gỗ hương liệu khác nhau như hồng đào, trầm hương, kỳ nam …tất cả đều được tán thưởng ở thị trường Trung Quốc, được trả với giá cực kỳ cao. Quế chi xứ Nam Hà, mặc dù hơi thô và hương vị cay nồng, nhưng người Trung Hoa vẫn thích nó hơn thứ quế Tích Lan (Ceyland)… Gạo là nhu cầu không thể thiếu của thành phố Quảng Châu đông đúc, còn đường và hạt tiêu cũng đều được hoan nghênh, tất cả các mặt hàng này đều được sản suất dồi dào trong các thung lũng phì nhiêu xứ Nam Hà. Ngoài những sản vật này, còn có thể kể thêm cau, sa nhân, gừng và các loại gia vị khác, cùng những tổ chim yến thu lượm được rất nhiều trên những cụm lớn các đảo chạy song song với bờ biển mà trên các hải đồ có tên là Paracels (Hoàng Sa)…”.
Nhà sử học Trần Trọng Kim trong tác phẩm Việt Nam sử lược
(Chương VI: Công việc họ Nguyễn làm ở miền Nam) đã viết:
“Còn những công việc họ Nguyễn làm ở phía Nam quan trọng cho nước Nam ta hơn cả, là việc mở mang bờ cõi, khiến cho nước lớn lên, người nhiều ra, và nhất là chiêu mộ những người nghèo khổ trong nước đưa đi khai hóa những đất phì nhiêu bỏ hoang, làm thành ra Nam Việt bây giờ phồn phú hơn cả mọi nơi, ấy là cái công họ Nguyễn với nước Nam thật là to lớn lắm vậy”.
Năm Quý Tỵ 1653, vua nước Chiêm là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm xin hàng. Chúa Nguyễn lấy đất đặt làm phủ Diên Khánh ( Khánh Hòa bây giờ).
Năm Quý Dậu 1693, vua Chiêm là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem quân đi đánh, bắt Bà Tranh đem về Phú Xuân, đổi đất Chiêm Thành làm Thuận phủ, qua năm 1697 lại đổi làm phủ Bình Thuận, lấy đất Phan Rí, Phan Rang làm huyện Yên Phúc và huyện Hòa Đa. Nước Chiêm Thành bị diệt.
Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh làm Khâm sai Kinh lược sứ, vào nam lập phủ Gia Định gồm hai huyện: huyện Phước Long ( Đồng Nai) dựng dinh Trấn Biên và huyện Tân Bình (Sài Gòn) dựng dinh Phiên Trấn (11); lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và tha thuế để khuyến khích khai khẩn ruộng đất. Những người Tàu di dân ở đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, những người ở đất Phiên Trấn thì lập làm xã Minh Hương. Những người Tàu này đều thuộc sổ bộ dân nước ta. Phủ Gia Định khi ấy dân số ước chừng bốn vạn hộ (20 vạn người).
Năm 1708, Mạc Cửu cai quản đất Hà Tiên (kể cả Phú Quốc) xin thuộc về Đàng Trong. Chúa Nguyễn chấp thuận, lập ra trấn Hà Tiên, để Mạc Cửu làm Tổng binh giữ đất ấy.
Năm 1732, vua Sâtha của Chân Lạp xin cắt hai vùng Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh Long) dâng chúa Nguyễn Phúc Trú (Thái) để tạ ơn dẹp loạn. Chúa Nguyễn đặt dinh Long Hồ và lập châu Định Viễn.
Năm 1735, Mạc Cửu qua đời, con là Mạc Thiên Tứ được chúa Nguyễn cho nối chức, tiếp tục mở rộng Hà Tiên đến Rạch Giá và Cà Mau. Năm 1757, chúa Nguyễn đặt ra đạo Kiên Giang (Rạch Giá) và đạo Long Xuyên (Cà Mau) đều thuộc về Trấn Hà Tiên.
Năm 1753, vua Chân Lạp là Chey Chêtthâ V (tức Nặc Nguyên) bị chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh cử binh phạt tội vì thông sứ với chúa Trịnh và ức hiếp người Côn Man (dân Chămpa lưu vong). Năm 1755 vua Chân Lạp bị đánh thua, bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ giúp tâu với chúa Nguyễn xin nộp hai vùng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp ( Tân An và Gò Công) để tạ tội. Chúa Nguyễn cho nhập hai vùng đất ấy vào châu Định Viễn.
Năm 1759, Nặc Nguyên mất, chú là Nặc Nhuận xin dâng hai vùng đất Trà Vinh và Sóc Trăng để được công nhận là vua Chân Lạp. Đến đây thì toàn bộ bờ biển hình chữ S của nước ta đã định hình.
Năm 1760, Nặc Nhuận bị rể là Nặc Hinh giết chết. Quan tổng suất triều Nguyễn là Trương Phúc Du đem quân sang đánh. Nặc Hinh thua chạy và bị giết. Con Nặc Nhuận là Nặc Tôn (Ang Tong) được lên nối ngôi vua Chân Lạp, xin dâng đất Tầm Phong Long ( Sa Đéc) để tạ ơn. Đến đây thì quá trình Nam tiến kể như hoàn tất.
Nặc Tôn lại dâng năm phủ là Kampot, Kompong Som, Chal Chun, Bantey Méas, và Raung Veng để tạ ơn Mạc Thiên Tứ. Chúa Nguyễn Phúc Khoát cho nhập tất cả vào trấn Hà Tiên. Năm 1841, vua Thiệu Trị trả năm phủ ấy lại cho Chân Lạp, ngày nay là hai tỉnh Kampot và Tà Keo.
“Nhà Nguyễn đã có công lao rất lớn đối với nước Việt Nam, đó là một sự thật hiển nhiên, vậy mà không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại bị bóp méo đến biến dạng, bị sai lệch đi trong cái nhìn chính thống, bị hạ thấp một cách oan ức về thang bậc giá trị lịch sử và văn hóa, bị ruồng bỏ nhiều bài vị tôn kính, bị xóa tên đường phố nhiều vua chúa kiệt xuất. Tại sao ?”
Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra triều Mạc mở đầu giai đoạn chiến tranh Nam – Bắc triều suốt thế kỷ 16. Bắc triều lấy Dương Kinh (Hải Dương) làm kinh đô thứ hai, dựa vào quân bốn trấn Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam và Kinh Bắc để chống lại quân Nam triều cát cứ vùng Thanh Nghệ. Chiến trường khi thì ở trong Thanh Hóa, Nghệ An khi thì tại kinh đô Thăng Long hoặc Sơn Nam, Hải Dương tùy tình hình tương quan lực lượng hai bên nhưng nhìn chung cuối cùng chỉ nhân dân là gánh chịu tất cả thiệt hại. Năm 1592, Trịnh Tùng thắng trận quyết định lấy lại kinh đô Thăng Long và giết chết Mạc Mậu Hợp. Tính ra họ Mạc làm chủ miền Bắc được 65 năm, sau đó tàn dư kéo lên Cao Bằng nối dài thêm được một số năm nữa. Có tài liệu cho nhà Mạc kéo dài đến cuối thế kỷ thứ 17, nhưng xét về thực chất thì sau khi Mạc Kính Khoan thất bại trong cuộc chiến chiếm lại Thăng Long năm 1623 thì nhà Mạc kể như cáo chung, vị thế người đứng đầu chỉ là hữu danh vô thực, gần giống như một tù trưởng địa phương mà thôi. Cuộc chiến Lê-Mạc đã làm suy yếu nội lực của Đại Việt, một quốc gia cường thịnh lúc bấy giờ trong vùng Đông Nam Á. Những thành tựu kinh tế – xã hội đạt được thời Lê sơ dưới triều đại các vị anh quân Lê Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông đều bị chiến tranh làm mai một, chất lượng cuộc sống bị kéo lùi, nạn đói xảy ra khắp nơi ngay cả tại vùng lưu vực sông Nhị Hà là vựa lúa lớn nhất Đại Việt thời bấy giờ.
Việt Nam sử lược (chương III, trang 274, sđd) viết :
“Năm Kỷ Hợi 1599, đời vua Thế tông nhà Lê, Trịnh Tùng thu xếp xong việc thông sứ
với nhà Minh, và đã chịu nhường đất Cao Bằng cho con cháu nhà Mạc rồi, trong nước
đã yên dần, bèn tự xưng làm Đô nguyên súy tổng quốc chính Thượng phụ Bình An
vương, rồi định lệ cấp bổng cho vua được thu thuế một ngàn xã gọi là lộc thượng
tiến, cấp cho vua 5000 lính để làm quân túc vệ. Còn những việc đặt quan, thu
thuế, bắt lính, trị dân đều thuộc về quyền họ Trịnh cả. Chỉ có khi nào thiết
triều hay là tiếp sứ thì mới cần đến vua mà thôi. Từ đó về sau, họ Trịnh cứ thế
tập làm vương, tục gọi là chúa Trịnh …”.
Năm 1627, Trịnh Tráng đem quân vào nam
đánh Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi) lần thứ nhất, mở đầu cho cuộc chiến tranh Trịnh-
Nguyễn. Trong 45 năm đối đầu, họ Trịnh chủ động vào đánh 6 lần, họ Nguyễn chỉ
đánh ra một lần nhưng đều bất phân thắng bại. Sau trận chiến năm Nhâm Tý 1672,
sông Gianh (Linh Giang) được chọn làm ranh giới phân chia Nam Bắc. Kể từ đó, đất
nước bị chia cắt hơn một trăm năm nữa, miền Bắc (Đàng Ngoài) sống dưới chế độ
vua Lê-chúa Trịnh mà vua Lê chỉ là bù nhìn; miền Nam (Đàng Trong) các chúa Nguyễn
tiếp tục mở rộng cương vực Đại Việt đến tận mũi Cà Mau. Năm Giáp Ngọ 1774, nhân
nhà Nguyễn có nội loạn (Tây Sơn khởi binh), họ Trịnh cho tướng Hoàng Ngũ Phúc
đánh lấy đất Thuận Hóa và Quảng Nam. Đây là lần đánh nhau cuối cùng giữa hai thế
lực Trịnh – Nguyễn. Sông Gianh chấm dứt vai trò lịch sử kể từ đấy.
Năm 1765, Võ vương Nguyễn Phúc Khoát từ trần, cường thần Trương Phúc Loan chuyên quyền đẩy sự nghiệp hai trăm năm chúa Nguyễn vào thế bại vong: kinh tế yếu kém, lòng dân ly tán, nội bộ chia rẽ. Nhân cơ hội đó, một hào phú vốn là chức sắc trong bộ máy thu thuế địa phương là Nguyễn Nhạc (Biện Nhạc) tự xưng “Tây Sơn trại chủ” đã đứng lên tập hợp dân nghèo dưới lá cờ “cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo” chống lại chính quyền Đàng Trong. Chỉ trong ba năm, quân khởi nghĩa chiếm trọn một dải đất từ Quảng Ngãi đến Phú Yên, trở thành một lực lượng đối trọng với chính quyền Lê-Trịnh ngoài Bắc và họ Nguyễn trong Nam.
Bị đánh dồn ép từ hai phía, Định vương Nguyễn Phúc Thuần bỏ Phú Xuân vào Gia Định tính chước khôi phục. Năm 1775, tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc thỏa hiệp với Nguyễn Nhạc rút quân về chiếm đóng Phú Xuân, nhường đất Quảng Nam cho Tây Sơn cai quản. Tháng ba năm Đinh Dậu (1777), Nguyễn Huệ đem quân vào Nam bắt giết Định vương ở Long Xuyên và Tân Chính vương ở Bến Tre. Tháng năm năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ tiến chiếm Phú Xuân, thừa thắng tiến thẳng ra Bắc, giương cờ “Phù Lê diệt Trịnh” truy đuổi và bắt giết Trịnh Tông, giao lại quyền cai quản xứ Bắc Hà cho dòng chính thống là vua Lê Chiêu Thống.
Năm 1786, sau khi chiến thắng quân Trịnh trở về, đất Tây Sơn được chia ba: Nguyễn Nhạc tự xưng Trung Ương Hoàng đế đóng đô tại Quy Nhơn, phân phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương cai quản hai xứ Quảng Nam và Thuận Hóa, còn Nguyễn Lữ làm Đông Định vương cai quản toàn bộ đất Gia Định kể cả Bình Thuận. Mỗi nơi đều có hệ thống chính quyền riêng, độc lập với hai nơi kia, thậm chí đối địch nhau mặc dù vẫn mang tên gọi chung là Tây Sơn. Phong trào khởi nghĩa nông dân với chiêu bài “cướp của người giàu chia cho dân nghèo” đã đi đến điểm kết thúc với sự thành lập nhà nước quân chủ phong kiến mới! Chính sự phong kiến hóa quá sớm đó vô hình chung đã giúp cho chúa Nguyễn có cơ hội trung hưng vì nhờ mảnh đất của vua Thái Đức làm trái độn, tránh đối đầu trực tiếp với kẻ thù mà ông chỉ toàn đánh thua. Nếu kể thêm xứ Bắc Hà (An Nam cũ) do vua Lê Chiêu Thống cai trị thì lúc này bức dư đồ Đại Việt như mảnh áo vá rách chia làm bốn mảnh: từ Lạng Sơn đến Thanh Hóa thuộc vua Lê, từ Nghệ An đến Quảng Nam thuộc Bắc Bình vương Nguyễn Huệ, từ Quảng Ngãi đến Phú Yên thuộc vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, từ Bình Thuận vào nam là của Đông Định vương Nguyễn Lữ. Nhiều người thất vọng vì viễn tượng tập đại thành thống nhất đất nước đã không xảy ra, chẳng những thế ở cả ba miền Bắc Trung Nam sau đó đều xảy ra chiến tranh dữ dội, cục diện xoay chiều liên tục giữa các thế lực phong kiến.
Từ nay mối rạn nứt giữa hai anh em Nhạc – Huệ không còn cơ hội hàn gắn nữa mà kéo dài đến tận thế hệ sau giữa hai anh em chú bác ruột là Nguyễn Bảo và Quang Toản, kết cục Toản giết chết Bảo cuối năm Mậu Ngọ 1798. Ngay cả khi vua Quang Trung mất (năm 1792), Quang Toản cũng không cho người bác ruột ra viếng tang, khiến Nguyễn Nhạc đi đến đầu địa giới phải quay trở lại Quy Nhơn.
Mùa đông năm Đinh Mùi (1787), sau khi đã giảng hòa với vua anh, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai Vũ văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh mang tội chuyên quyền, lấy oán báo ơn, mưu đối địch. Chỉnh bị giết chết, vua Lê bỏ kinh thành trốn tránh trong các hương ấp, nay Hải Dương, mai Sơn Nam rồi lại trở về Kinh Bắc. Tây Sơn áp đặt chế độ quân chính lên các trấn xứ Bắc Hà, hoàng thân Lê Duy Cận được cử làm Giám quốc bù nhìn chỉ biết ngày ngày đến tướng phủ Tây Sơn chờ mệnh lệnh. Tháng ba năm Mậu Thân 1788, Bắc Bình vương lại thân ra Bắc diệt Nhậm. Những rối loạn thay bậc đổi ngôi liên tục diễn ra trong một thời gian ngắn khiến tình hình Bắc Hà thực sự rối ren, các võ tướng cũ của chúa Trịnh và các hào mục địa phương nổi lên quy tụ từ vài trăm đến vài ngàn thổ binh tự quản lấy, phép nước không còn ai tôn trọng. Trong lúc ấy tình hình miền Nam cũng không hơn gì.
Năm 1786, Nguyễn Lữ được phong làm Đông Định vương, cai quản một vùng đất trù phú rộng lớn từ Bình Thuận trở vào. Tuy nhiên, lực lượng quân Tây Sơn đóng trên đất Gia Định giống như một đạo quân chiếm đóng hơn là quân phò chính diệt tà. Quan hệ giữa quân với dân vẫn giữ khoảng cách nếu không muốn nói là thù địch. Hệ thống chính quyền quân quản do các võ quan đứng đầu chỉ quen ra những mệnh lệnh tịch thu, sung công, cấm đoán, bắt bớ chứ không biết ra những chính sách an dân. Người Thanh Hà (Trấn Biên) và Minh Hương ở Phiên Trấn vẫn còn nhớ vụ cướp bóc, đốt phá Nông Nại Đại Phố năm 1777, vụ tàn sát người Hoa để trả thù quân Hòa Nghĩa sau cái chết của Phạm Ngạn năm 1782, hoặc vụ quân Tây Sơn tàn sát giáo dân Ba Giồng do đã chứa chấp chúa Nguyễn năm 1783, gần nhất là vụ ép dời chợ Bến Nghé về Cầu Sơn cho dễ thu thuế của Nguyễn Lữ (tháng 5 năm 1787). Những vụ “nhập khấu” này làm xấu đi hình ảnh của quân Tây Sơn trong con mắt của dân Gia Định, nên thực khó mà nhận được sự hậu thuẫn của người dân. Theo Nguyễn Hữu Hiếu:
“… Mỗi lần đại quân Tây Sơn đánh vào chỉ tiêu diệt được lực lượng quân sự của Nguyễn Ánh, tàn phá phần nào cơ sở vật chất (thu gom lúa gạo, đốt phá, tháo dở các công trình lớn ở cù lao Phố, Chợ Lớn, Mỹ Tho…lấy vật tư chở về Quy Nhơn), chớ chánh quyền Nguyễn Lữ chưa hề có động thái gì nhằm làm thay đổi cơ cấu xã hội Gia Định, cơ sở tồn tại và phục hưng của Nguyễn Ánh…nên hễ túng thế thì Nguyễn Ánh bỏ chạy, nhưng tạm yên thì ông ta lại quay về Gia Định như về nhà mình vậy …”.
Là người dân Việt, hầu như không ai là không biết đến chiến thắng Đống Đa oanh liệt, một chiến thắng chống ngoại xâm giúp giữ vững chủ quyền lãnh thổ, ngăn ngừa âm mưu đưa đất nước vào vòng Bắc thuộc một lần nữa của những kẻ đặt quyền lợi cá nhân, sự tồn tại của giòng tộc cao hơn sự thiêng liêng của độc lập dân tộc. Chiến thắng của hoàng đế Quang Trung đã đem lại chính danh cho vương triều mới, đẩy triều đại Lê Trịnh mục ruỗng lùi vào quá khứ và thu phục được lòng dân xứ Bắc. Tiếc thay, cái chết đột ngột của người anh hùng áo vải đuổi Nguyễn, diệt Lê, tuyệt Trịnh, đánh tan hai đạo binh xâm lược ở hai đầu đất nước xảy ra quá sớm đã khiến cho vương triều Tây Sơn sớm lụi tàn vì không có người kế thừa xứng đáng.
Tháng năm năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn vương đem quân ra vây thành Quy Nhơn. Trấn thủ Lê Văn Thanh chống giữ không nổi phải mở cửa thành đầu hàng. Quy Nhơn bị đổi tên thành Bình Định. Tháng giêng năm Tân Dậu (1801) quân Nguyễn đánh thắng một trận thủy chiến lớn ở cửa Thị Nại, tiêu diệt gần hết tàu thuyền chủ lực của Tây Sơn, từ đó làm chủ mặt bể. Ba tháng sau, quân Nguyễn lại thắng trận thủy chiến ở cửa Thuận An, tiến lên vây đánh thành Phú Xuân. Vua Tây Sơn Quang Toản bỏ chạy, chúa Nguyễn thu phục lại được đô thành sau 27 năm bị chiếm đóng. Bấy giờ là ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu (1801).
Tháng giêng năm Nhâm Tuất (1802), vua Tây Sơn đem quân 4 trấn Bắc Hà và quân Thanh Nghệ vào đánh lũy Trấn Ninh, lại sai tướng đem 100 chiến thuyền vào giữ cửa Nhật Lệ (Quảng Bình ngày nay). Bị thủy quân của chúa Nguyễn đánh bại, quân Tây Sơn phải rút lên bộ rồi bỏ Trấn Ninh chạy về Nghệ An. Đây cũng là cố gắng tận lực cuối cùng của vua tôi Quang Toản trước lúc triều Tây Sơn cáo chung. Tháng năm năm Nhâm Tuất, Nguyễn vương lên ngôi tôn tại Phú Xuân, đặt niên hiệu là Gia Long nguyên niên. Tháng sáu, quân Nguyễn triều Bắc tiến, thế như chẻ tre, nội trong một tháng đánh lấy Thanh Nghệ rồi tràn ra Thăng Long, tướng Tây Sơn là Nguyễn văn Thọ mở cửa thành ra hàng, vua Gia Long nhập thành chiêu an, đổi tên Thăng Long thành Bắc thành. Tháng bảy cùng năm, vua Gia Long trở về kinh đô Phú Xuân, mở đầu giai đoạn thống nhất đất nước từ Nam tới Bắc, thu giang sơn về một mối.
“…Một số ý kiến cho rằng triều Nguyễn là phản động vì đã đánh bại triều Tây Sơn, một triều đại có những cống hiến to lớn trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, lật đổ được chế độ phong kiến cát cứ Đàng Trong-Đàng Ngoài cũng không đúng. Vì những yếu tố tích cực, tiến bộ của phong trào Tây Sơn mà nhân dân ta đã giành được dưới thời Nguyễn Huệ đã không còn phát huy sau ngày vua Quang Trung mất (1792). Triều đại Tây Sơn dưới thời vua Cảnh Thịnh đã thoái hóa, biến chất, suy đồi dẫn đến mâu thuẫn nội bộ và mâu thuẫn xã hội vô cùng gay gắt, là nguyên nhân dẫn đến thất bại trước áp lực quân sự của Nguyễn Ánh. Vương triều Tây Sơn đã làm mất lòng dân, không được nhân dân đồng tình ủng hộ nên quân Nguyễn thắng Tây Sơn là việc thường tình và dễ hiểu…”.
Thăng Long ngàn năm văn hiến, với vai trò vị trí là kinh đô của nước Đại Việt từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 18, niềm tự hào của sĩ phu và dân chúng Bắc Hà, sự thực đã chấm dứt vai trò lịch sử từ năm 1788 dưới triều Tây Sơn chứ không phải năm 1802 dưới thời Gia Long, vị vua mở đầu triều Nguyễn như nhiều người lầm tưởng. Năm 1786, họ Trịnh thất bại trong việc khôi phục lại địa vị, Trịnh Bồng chạy khỏi kinh thành, Lê Chiêu Thống ngầm cho người đốt phủ chúa đi. Đám cháy lan khắp hai phần ba kinh thành và cháy trong mười ngày liền, làm mất đi một quần thể kiến trúc đẹp của Thăng Long – Hà Nội. Điều này được sách Hoàng Lê nhất thống chí chép như sau:
“…Sớm hôm sau, hoàng thượng mới biết là Án Đô vương đã trốn đi lúc ban đêm tức thì ngầm sai người phóng hoả đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt.
.Thế là hai trăm lâu đài cung khuyết huy hoàng bỗng chốc đã thành bãi đất cháy đen. Xa gần nghe thấy tin đó, ai cũng thương chúa và trách vua làm quá đáng. Hôm ấy nhằm ngày mồng 8 tháng chạp năm Bính Ngọ (1786)…”.
Năm sau 1787, Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Chiêu Thống bỏ kinh đô bôn tẩu và Thái hậu chạy sang Quảng Tây cầu viện nhà Thanh. Xứ Bắc Hà trở thành một phần lãnh thổ của Tây Sơn và kể từ đây Thăng Long không còn là kinh đô nữa. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế Quang Trung tại kinh đô Phú Xuân trước khi Bắc tiến tiêu diệt 29 vạn quân Thanh. Mười ba năm sau (1802), Nguyễn Vương lên ngôi hoàng đế cũng tại kinh đô Phú Xuân trước khi Bắc tiến tiêu diệt bọn Quang Toản, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Như vậy chỉ trong một thời gian ngắn, kinh đô Phú Xuân hai lần chứng kiến hai cuộc lên ngôi chính danh của hai vị hoàng đế trước khi Bắc phạt, một để đánh đuổi quân xâm lược ngoại bang, giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc, một chấm dứt cuộc nội chiến, thu giang san về một mối. Trong cả hai lần, Thăng Long đều đóng vai trò chứng nhân lịch sử một cách thụ động.
“…Vua cho Thước tất cả. Thước liền gọi lái đò đưa thuyền đến bến, chở nhà vua cùng đám người cùng đi qua sông. Khi vua đã lên bờ, Thước lại cho người đuổi theo lột chiếc áo ngự bào vua đang mặc. Vua ứa nước mắt cởi áo ngự bào trao cho chúng, rồi chạy về núi Như Thiết”. Thật khác với vua Gia Long, dù bao phen bị Tây Sơn truy đuổi gay gắt thập tử nhứt sinh nhưng đều vượt qua được nhờ sự chở che của người dân miền Nam. Hoặc trường hợp tên tiểu lại làng Hạ Lôi Nguyễn Trang phản thầy bán chúa: ” Quán nghe tin có việc biến (chúa bị bắt-KH), thân hành đến tận chỗ chúa, rập đầu xuống đất mà nói : Làm lầm chúa đến nông nỗi này, là do tội của tôi cả. Tông đáp : người ta ai có bụng nấy, khanh có can dự gì. Quán lui trở vào, bảo Trang : Chúa là chúa chung của thiên hạ. Mà ta lại là thầy anh.Vua tôi là nghĩa lớn, sao anh nỡ làm như thế . Trang đáp : Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi không để cho quan lớn làm cho lầm lỡ đâu. Tiếp đó Trang bức Quán phải trở về nhà, rồi quát thủ hạ dìu chúa về kinh đô”.
“…nếu giặc Thanh có sang thì phiền ông làm một bài thơ để lui quân giặc, nếu không thì túi đao bao kiếm là phận sự của kẻ võ thần, can gì phải quá lo …” hoặc những lời khích tướng của Nguyễn Hữu Chỉnh khi khuyên Nguyễn Huệ thừa thắng tiến ra đánh lấy Bắc Hà “xứ ấy không còn nhân tài” mặc dù hơi miệt thị nhưng cũng có phần sự thật như sau này lịch sử đã chứng minh (32). Qua đó, chúng ta thấy Thăng Long không tự bảo vệ được mình, các đạo quân chiếm đóng lần lượt đến rồi đi như quân Tây Sơn của Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ (1786), quân Nghệ An của Nguyễn Hữu Chỉnh (1787), quân Tây Sơn của Vũ Văn Nhậm (1787), quân Thanh xâm lược của Tôn Sĩ Nghị (1788), quân Tây Sơn của vua Quang Trung (1789) rồi sau này là quân Nguyễn của vua Gia Long (1802) thay nhau vào ra Thăng Long như chốn không người, một phần bởi địa hình công dễ thủ khó nhưng phần lớn do tướng bất tài, quân bê trễ, triều đình không còn kỷ cương.
“…khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải lo chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi. Bọn ngươi nên cùng nhau giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì bọn ngươi chết không có đất chôn thây đấy ..”.
“Tính chông chênh của nhóm Tây Sơn Quang Trung thấy đầu tiên ở nơi vị trí trú đóng. Nòng cốt của quân lực thì lấy ở đất Quy Nhơn mà lại đứng chân trên kinh đô của giòng họ Nguyễn. Người cầm đầu cũng thấy điều ấy nên lăm le trở về Nghệ An, quê của tổ tông để tìm sự liên kết cố cựu. Tuy nhiên thực tế đất ấy lại không còn là của họ nữa vì những người dân đang phải chịu tai ách của chiến tranh hơn cả lúc trước, như lời Nguyễn Thiếp trình bày, thì không có lòng dạ nào nhận bà con với người áp bức họ được. Quang Toản sau đó vẫn ở Phú Xuân là minh chứng”.
“…sự thắng thế của Nguyễn Ánh trước Tây Sơn có thể coi là sự thắng thế của những nhân tố bảo thủ lạc hậu đối với những yếu tố tiến bộ…”
(Nguyễn Ngọc Cơ, “Một giai đoạn của lịch sử Việt Nam thời Nguyễn và những câu hỏi cần giải đáp thỏa đáng”, Lịch sử nhà Nguyễn, sđd, trang 14).
“…cái thống nhất của Gia Long nhờ cắt đất dâng cho thực dân mà có được đã gây mầm chia cắt đất nước …”
(Văn Tạo, “Nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc”, Lịch sử nhà Nguyễn, sđd, trang 27)
Thứ nhất, Nguyễn Ngọc Cơ đã nhầm lẫn hoặc cố ý nhầm lẫn khi ông đánh tráo khái niệm bảo thủ lạc hậu và tiến bộ giữa hai chủ thể Tây Sơn và Gia Long. Những năm cuối thế kỷ 18, vương triều Tây Sơn đã không còn ánh hào quang buổi đầu: lộng thần Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền, áp chế ấu chúa, vua Quang Toản ích kỷ nhỏ nhen, đa nghi đố kỵ, giết người bừa bãi, tàn sát công thần, mù quáng nghe lời nịnh thần dẫn đến nội loạn, trong triều thì rối ren, ngoài biên cương thì quân tướng hoang mang. Nguyễn Thiếp xin từ chức về trí sĩ; Nguyễn Bảo, Lê Chất về hàng Nam triều, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng mang quân về kinh chực đánh nhau. Thật khác xa với tính chất phong trào nông dân khi khởi xướng “cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo”. Người dân hai miền Nam Bắc trông mong gì ở “yếu tố tiến bộ” ấy ? Trong khi lực lượng Nguyễn Vương mỗi ngày một lớn lên, thu phục được nhân tâm cả nước, trong một tháng lấy trọn cả một vùng đất vua Lê cũ. Một đạo quân nếu không có chính nghĩa sao làm được như vậy ? Sau ngày thống nhất đất nước, Việt Nam trở thành một quốc gia giàu mạnh, khống chế lân bang, trở thành lực đối trọng với Xiêm La trong vùng Đông Nam Á. Đó là một “nhân tố bảo thủ lạc hậu” ư ? Thực ra, từ thế kỷ 19 trở về trước, khi một “lực lượng sản xuất” phá vỡ “quan hệ sản xuất” thì lại tạo ra một “quan hệ sản xuất” mới theo mô hình cũ. Các lãnh tụ nông dân khi giành được chính quyền từ các vua chúa cũ thì lại…lên làm vua, thành lập một triều đại phong kiến mới, chứ không hình thành nên một chủ nghĩa gì cả vì khi ấy ngài Các Mác hãy còn ở truồng nằm nôi. Nhìn một cách khách quan, việc nhà Tây Sơn Quan Toản suy yếu mọi mặt sụp đổ là có nguyên nhân từ bên trong, và trong hoàn cảnh đó vua Gia Long chấm dứt nội chiến, thống nhất đất nước, Đại Việt vững mạnh lên thì không thể nói đó là một “nhân tố bảo thủ lạc hậu” được.
“Năm 1817, chiếc tàu binh tên là Cybèle của nước Pháp vào cửa Đà Nẳng. Quan thuyền trưởng là Bá tước De Kergarion nói rằng Pháp hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước của ông Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa”.
Tôi thiết tưởng bất cứ ai trong số chúng ta, thuở cắp sách đến trường, cũng đều quặn lòng khi đọc đến những trang đen tối trong sử Việt cuối thế kỷ XIX: chế độ phong kiến lỗi thời với những ông vua bảo thủ và quần thần mê muội khiến đất nước suy yếu, dễ dàng rơi vào tay thực dân Pháp. Đó là chiến thắng của khoa học kỹ thuật phương Tây trước nền văn minh phương Đông đã bước vào giai đoạn suy tàn. Làn sóng chiếm đất làm thuộc địa của các nước tư bản phương Tây tràn vào châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng, khiến hầu hết các nước đều chịu chung số phận: Indonesia ( thuộc địa của Bỉ và Hòa Lan), Ấn Độ, Mã Lai, Diến Điện (Anh), Philippine (Tây Ban Nha), Macao (Bồ Đào Nha), Việt Nam, Lào, Căm Bốt (Pháp)…chỉ trừ Thái Lan may mắn thoát khỏi nhờ vị trí địa lý, làm trái độn giữa hai đế quốc. Hầu như không một nước nào chống lại được sức mạnh quân sự của phương Tây, do sự chênh lệch về hiệu năng vũ khí quá lớn. Điển hình là Trung Hoa, một nước lớn làm “mẫu mực” hàng ngàn năm cho các tiểu quốc trong vùng, bị “bát quốc liên minh” đánh cho tơi tả. Trước khi phê phán trách nhiệm để mất nước vào tay thực dân Pháp, chúng ta hãy thử đặt mình vào vị thế của nhà Nguyễn lúc đó, với những hạn chế khách quan về tương quan quân sự Đông –Tây lúc đó. Những hạn chế tác động đến đại cục. Dĩ nhiên không thể lấy đó để biện minh cho trách nhiệm của nhà Nguyễn trước lịch sử. Nhưng cũng không thể vì thành kiến mà đổ vấy hết tội cho triều Nguyễn, mà phải xét thấu đáo đến những yếu tố khách quan, chủ quan lúc đó. Đứng ở thế kỷ 21 nhìn về hơn trăm năm trước, dùng thế giới quan hiện đại mà phê phán nặng lời tiền nhân thì dễ, nhưng nếu tự đặt mình vào hoàn cảnh đó, hoặc nhìn lại mình hôm nay, có thấy khá hơn chăng ? Thậm chí những thành tựu trong cải cách kinh tế – xã hội và hành chánh đều bị xuyên tạc, suy diễn theo hướng có tội, kiểu như “Mỹ xây xa lộ Biên Hòa là để cho máy bay …đáp” trước đây, thử điểm lại một vài ý kiến:
“…cải cách hành chính của vua Minh Mệnh càng thành công trong việc củng cố vương triều Nguyễn bao nhiêu, lại là củng cố cái trì trệ, bảo thủ, lạc hậu của phong kiến Nguyễn, phong kiến Tống Nho sao chép Mãn Thanh đang suy tàn bấy nhiêu. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự bất lực, đầu hàng của triều Nguyễn trước cuộc xâm lăng của đế quốc thực dân…. Thực ra, cuộc cải cách hành chánh của vua Minh Mệnh đã củng cố bộ máy nhà nước theo hướng trung ương tập quyền, tránh được tình trạng phân phong cát cứ vốn là cố tật của các chế độ phong kiến. Bãi bỏ Bắc thành và Gia Định thành, lãnh thổ Đại Nam (gần trùng khớp với lãnh thổ Viêt Nam ngày nay ) được chia làm 30 tỉnh (trừ phủ Thừa Thiên), trực thuộc triều đình, dưới tỉnh là phủ, huyện và xã. Đây là một cuộc cải cách với quy mô lớn, tăng cường tính pháp trị của nhà nước phong kiến thống nhất, củng cố chế độ giám sát toàn bộ nền hành chính quốc gia, là một tiến bộ giúp xã hội ổn định sau nhiều thế kỷ loạn lạc. Về đại thể mô hình này vẫn còn được áp dụng cho đến ngày nay, dù trải qua nhiều cải biến như vai trò của người đứng đầu đơn vị hành chánh xã (xã trưởng) và thôn (lý trưởng) hoặc các Bộ trực thuộc trung ương (Thượng thư, tham tri tức Bộ trưởng, thứ trưởng bây giờ) .
“…Họ (lưu dân) ra đi là để tỏ thái độ quyết chối bỏ chúa Nguyễn, nhưng chạy trời không khỏi nắng, chúa Nguyễn đã đuổi theo họ, lợi dụng họ như một con bài chính trị và xã hội trong cuộc tranh giành ảnh hưởng ở phương nam. Nói khác hơn, giữa chúa Nguyễn với lớp lưu dân Việt đến Thủy Chân Lạp trước thế kỷ XVIII, tuy có cùng một địa chỉ tập kết nhưng mục đích thì hoàn toàn khác nhau.” (36). Đây là một trường hợp xuyên tạc lịch sử trắng trợn, điển hình cho lối tư duy chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa giáo điều, máy móc. Ít nhất trong thời kỳ của các chúa Nguyễn, quan hệ giữa nhà nước và lưu dân không phải là quan hệ giữa giai cấp bóc lột và lớp người bị bóc lột. Thử xem lại một đoạn trong Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, một Điền tuấn quan dưới thời chúa Nguyễn: “…nghe theo ý muốn của dân, không bó buộc gì, cốt cho mở đất vỡ hoang thành ruộng lập xã mà thôi, lại có khi đất bùn lầy mà trưng làm ruộng nộp thuế, ruộng ở núi và gò giồng mà trưng làm ruộng cỏ, như thế nhiều lắm. Còn như sào mẫu khoảng thửa, thì tùy theo miệng nói mà biên vào sổ, cũng không hạ thước đi khám và bổ chia tốt xấu theo thực trạng về thuế lệ nhiều ít, cái hộc đong lớn nhỏ, thì lại tùy theo lệ cũ, theo thế mà làm, rất không đều nhau. Đến đây mới tham chước mà đặt tiêu chuẩn công bằng, nhưng so sánh với các dinh trấn ở phía bắc thì Gia Định pháp chế rộng mà thuế nhẹ…”, ” …dân ở vùng này đều có thể tự do đi khai khẩn đất ruộng ở các vùng khác, ai muốn đến ở đâu, khai khẩn ruộng gò, ruộng thấp ở nơi nào tùy ý. Lựa chọn đất đai rồi chỉ cần khai báo với nhà cầm quyền là mình trở thành nghiệp chủ của khoảnh đất ấy, chính quyền cũng không đo đạc lại xem diện tích là bao nhiêu, không cần biết đất ấy tốt xấu thế nào. Người nghiệp chủ tùy theo điền sản mình chiếm rộng hẹp mà tự nguyện nộp thuế nhiều hay ít và nộp thuế bằng thóc dùng hộc già hay hộc non đong cũng được…”.
(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Viện Sử học,Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1980). Hoặc theo Nguyễn Phúc Nghiệp: “ …Tổng hợp từ nguồn Góc nhìn Annam”
Đoàn Như Tùng Tony

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :
Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ