[TRÍCH ĐOẠN TỪ SÁCH]
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Phần thứ nhất:
NHẬP MÔN KINH DỊCH/ ĐẠI CƯƠNG VỀ QUẺ DỊCH
I. Kinh Dịch
II. Thuật ngữ cần nhớ
III. Ý nghĩa các hào
IV. Quy tắc cần nhớ
Phần thứ hai: BÓI QUẺ DỊCH
I. Nghi thức bói và luật cảm ứng
II. Các phương pháp lập quẻ Dịch
III. Giải đoán quẻ
Phần thứ ba: PHỤ CHÚ
I. Phương pháp lập quẻ bằng thẻ tre
II. Bấm độn
Phần thứ tư: ÔN TẬP
I. Nước Việt của Câu Tiễn
II. Lập quẻ Dịch
III. Giải quẻ
IV. Chuyển đổi quẻ
LỜI KẾT
Lời nói đầu:
Bói Dịch không phải là mê tín, nó là khoa học. Có thể
gọi là khoa học huyền bí. Vì vậy, Tiến sĩ Phân tâm học C.G. Jung (ông cùng với
S. Freud là một trong những thủy tổ của khoa Phân Tâm Học, nghiên cứu về tiềm
thức của loài người) năm 1949 đã dùng bói Dịch để biết việc quảng bá và giới
thiệu Dịch (I Ching) từ tiếng Đức sang tiếng Anh có được thuận lợi hay không?.
Bói được rất tốt, ông tiến hành và Dịch đã trở thành kinh điển cho các học giả
và các trường đại học Tây Phương học hỏi.
Có 2 lý do để tôi viết tiểu luận này:
1/ Chúng ta chỉ sợ những gì mình không hiểu: Thí dụ
như sợ Ma, vì chúng ta không biết rõ Ma là gì?. Nếu biết thì sẽ không sợ. Cũng
vậy, chúng ta sợ chết, vì không biết chết ra sao, sau khi chết như thế nào?. Nếu
chúng ta biết rõ thì chắc chúng ta cũng sẽ không sợ. Đó là lý do Phật giáo
khuyên chúng ta nên tìm hiểu về sự chết (Tử)
Tôi viết tiểu luận này mong độc giả tìm hiểu rõ về Bói Dịch, không sợ nó nữa, để các ông thầy Bói toán, Phong thủy (giả), vì tư lợi, không còn “hù” ta được nữa. Bói Dịch mà vì tư lợi sẽ không bao giờ linh ứng.
2/ Kinh Dịch là 1 trong 5 Kinh chính của triết lý Đông
Phương. Các nhà trí thức (Nho gia) xưa phải lào thông nó mới có thể đi thi. Điều
đó chứng tỏ nó rất quan trọng. Bói Dịch rất khó hiểu đối với các người trẻ, người
mới bắt đầu. Ngay cả sách được cho là kinh điển của cụ Ngô Tất Tố, phần giải
thích về bói cũng rất khó hiểu. Tôi mong làm nó đơn giản hơn, dễ hiểu hơn để
giúp các bạn trẻ, ai muốn tìm hiểu sẽ dễ dàng hơn, hầu mong giữ gìn những quý
giá của ông cha không bị mai một!
Lại nữa, ý của Dịch cho rằng: con người tự mình vẫn có
thể sửa đổi được số mạng của mình một phần nào; thế thì tại sao chúng ta không
tự tìm hiểu, tự bói quẻ tìm phương thức đối ứng, mà phải nhờ người khác làm
thay cho mình? Biết chắc họ thật sự là bậc thức giả không? Ở đời, biết đâu hư
biết đâu thực, biết đâu chân biết đâu giả.
PHẦN THỨ NHẤT
NHẬP MÔN KINH DỊCH
ĐẠI CƯƠNG VỀ QUẺ DỊCH
I. KINH DỊCH
Kinh Dịch là một trong ba bộ kinh cổ nhất của Trung quốc,
sau Kinh Thi và Kinh Thư, nhưng nguồn gốc của nó (tức bát quái) thì có thể sớm
hơn, vào cuối đời Ân, khoảng 1.200 năm trước Tây Lịch.
Nó không do một người viết, mà do nhiều người góp sức trong một ngàn năm, từ Văn Vương nhà Chu mãi đến đầu đời Tây Hán.
Điều kỳ dị nhất của Dịch là nó chỉ dựng trên thuyết âm dương, trên một vạch liền ____ tượng trưng cho dương, một vạch đứt __ __ tượng trưng cho âm. Hai vạch đó chồng lên nhau, đổi lẫn cho nhau nhiều lần thành ra tám hình bát quái, rồi tám hình bát quái này lại chồng lẫn lên nhau thành sáu mươi bốn hình mới: Lục thập tứ quái.
Dùng sáu mươi bốn hình này người ta sẽ diễn giải được tất cả các quan niệm về vũ trụ, nhân sinh. Từ những hiện tượng trên trời dưới đất, những luật thiên nhiên cho tới những công việc thường ngày như trị nước, ra quân, trị nhà, cưới hỏi, ăn uống, xử thế…
— Mới đầu chỉ có lưỡng nghi: dương (vạch liền: ___ ) và âm (vạch đứt: _ _ )
— Bên dương, nếu lấy dương chồng lên dương, rồi lấy âm chồng lên dương, chúng ta sẽ được hai hình tượng:
– (vạch dương/ vạch dương): thái dương
– (vạch âm/ vạch dương): thiếu dương
Bên âm cũng vậy, nếu lấy âm chồng lên âm, rồi lấy dương chồng lên âm, chúng ta sẽ được hai hình tượng nữa:
– (vạch âm/ vạch âm): thái âm
– (vạch dương/ vạch âm): thiếu âm
Như vậy được bốn hình tượng, gọi là tứ tượng.
Tứ tượng có tên: Thái dương, thiếu dương, thái âm, thiếu âm
— Sau cùng, lấy dương lần lượt chồng lên cả bốn hình trên, chúng ta sẽ được 4 hình:
Ly (Li), Càn (Kiền), Tốn, Cấn.
Rồi lấy âm lần lượt chồng lên cũng cả bốn hình đó, chúng ta sẽ được thêm 4 hình nữa:
Chấn, Ðoài (Đoái), Khảm, Khôn.
Như vậy được hết thảy 8 hình gọi là bát quái (tám quẻ).
Mỗi quẻ có 3 vạch (gọi là 3 hào), xuất hiện lần lần từ dưới lên trên. Cho nên
khi gọi tên hào, khi đóan quẻ, phải đếm và xét từ dưới lên trên: Hào dưới (cũng
là hào 1), rồi lên hào 2, hào 3…
[HẾT TRÍCH]
Đọc toàn bộ sách hoặc Download xin theo links
dẫn dưới đây:
II. Thuật ngữ cần nhớ
III. Ý nghĩa các hào
IV. Quy tắc cần nhớ
II. Các phương pháp lập quẻ Dịch
III. Giải đoán quẻ
II. Bấm độn
II. Lập quẻ Dịch
III. Giải quẻ
IV. Chuyển đổi quẻ
Tôi viết tiểu luận này mong độc giả tìm hiểu rõ về Bói Dịch, không sợ nó nữa, để các ông thầy Bói toán, Phong thủy (giả), vì tư lợi, không còn “hù” ta được nữa. Bói Dịch mà vì tư lợi sẽ không bao giờ linh ứng.
ĐẠI CƯƠNG VỀ QUẺ DỊCH
I. KINH DỊCH
Nó không do một người viết, mà do nhiều người góp sức trong một ngàn năm, từ Văn Vương nhà Chu mãi đến đầu đời Tây Hán.
Điều kỳ dị nhất của Dịch là nó chỉ dựng trên thuyết âm dương, trên một vạch liền ____ tượng trưng cho dương, một vạch đứt __ __ tượng trưng cho âm. Hai vạch đó chồng lên nhau, đổi lẫn cho nhau nhiều lần thành ra tám hình bát quái, rồi tám hình bát quái này lại chồng lẫn lên nhau thành sáu mươi bốn hình mới: Lục thập tứ quái.
Dùng sáu mươi bốn hình này người ta sẽ diễn giải được tất cả các quan niệm về vũ trụ, nhân sinh. Từ những hiện tượng trên trời dưới đất, những luật thiên nhiên cho tới những công việc thường ngày như trị nước, ra quân, trị nhà, cưới hỏi, ăn uống, xử thế…
— Mới đầu chỉ có lưỡng nghi: dương (vạch liền: ___ ) và âm (vạch đứt: _ _ )
— Bên dương, nếu lấy dương chồng lên dương, rồi lấy âm chồng lên dương, chúng ta sẽ được hai hình tượng:
– (vạch dương/ vạch dương): thái dương
– (vạch âm/ vạch dương): thiếu dương
Bên âm cũng vậy, nếu lấy âm chồng lên âm, rồi lấy dương chồng lên âm, chúng ta sẽ được hai hình tượng nữa:
– (vạch âm/ vạch âm): thái âm
– (vạch dương/ vạch âm): thiếu âm
Như vậy được bốn hình tượng, gọi là tứ tượng.
Tứ tượng có tên: Thái dương, thiếu dương, thái âm, thiếu âm
— Sau cùng, lấy dương lần lượt chồng lên cả bốn hình trên, chúng ta sẽ được 4 hình:
Ly (Li), Càn (Kiền), Tốn, Cấn.
Rồi lấy âm lần lượt chồng lên cũng cả bốn hình đó, chúng ta sẽ được thêm 4 hình nữa:
Chấn, Ðoài (Đoái), Khảm, Khôn.
https://t-van.net/nguyen-lac-que-dich-tieu-luan/
Hoặc:
https://nguyenlac.wordpress.com/2022/11/18/nguyen-lac-que-dich-cach-lap-giai-doan/
...............
Bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ sinh ngày 15 tháng 12 năm 1921 tại Chi Long, Hà Nam, Bắc Việt. Tốt nghiệp Đại học Y khoa Hà Nội năm 1952. Phục vụ ngành Quân Y từ năm 1952 đến năm 1965 với cấp bậc Thiếu Tá và giữ chức vụ Chỉ huy Tổng Y Viện Duy Tân (Đà Nẵng) từ năm 1956 đến 1963. Từ năm 1967 cho đến 1975, Bác sĩ là Giáo sư trường Đại học Saigon và Minh Đức (Saigon), phân khoa Văn Khoa: dạy Triết Học Đông Phương, đặc biệt có giảng dạy thêm về Kinh Dịch. Năm 1960 tác giả được trao giải thưởng văn chương Tinh Việt Văn Đoàn qua tác phẩm Trung Dung Tân Khảo.
Năm 1982 Bác sĩ cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ và lấy bằng Bác Sĩ Y Khoa tương đương tại Hoa Kỳ vào năm 1983. Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ từng là cộng tác viên của nhiều nguyệt san tại Việt Nam, Hoa Kỳ, Canada, Đức, Úc và đã hoàn tất 18 tác phẩm với khoảng 7000 trang về hai đề tài chính là Triết Học Đông Phương và Tôn Giáo Đối Chiếu (Khổng Học Tinh Hoa, Chân Dung Khổng Tử, Dịch Kinh Đại Toàn, Phật Học Chỉ Nam, Lão Trang Giản Lược, Đạo Đức Kinh Đường Vào Triết Học Và Đạo Học v.v…)
Lúc ở California thập niên 1980, bác sĩ Thọ có mở lớp dạy Kinh Dịch miễn phí vào cuối tuần tại chùa Việt Nam (12292 Magnolia St, Garden Grove, CA 92641). Lớp dạy phải giải tán vì bác sĩ Thọ bị tai biến mạch máu não năm 1989.
Bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ tạ thế ngày 07 tháng 01 năm 2014 tại Issaquah, WA, USA, hưởng thọ 93 tuổi.
Link trang web BS Nhân tử Nguyễn Văn Thọ
– Văn hóa Đông phương (Có bộ sách Dịch Kinh đại toàn E – Book)
http://nhantu.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :
Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ