Trang

Thứ Ba, 29 tháng 11, 2022

THỊ XÃ QUẢNG TRỊ MÙA NÀY – Thơ Đỗ Tư Nhơn, Võ Thị Như Mai chuyển ngữ


 

 
THỊ XÃ QUẢNG TRỊ MÙA NÀY
 
Thị xã rêu phong cổ tích
Thành Cổ, tường thành vỡ nát
Dòng sông không còn trong sạch
Ký ức niên thiếu hoang tàn
Người già lom khom ngồi nhớ
Bạn bè cùng dưới mái trường
Như loài thiên di bay hết
Một ngày nghe tin bạn chết
Lặng im thắp một nén hương
Luân hồi đi theo chữ nghiệp
Vui buồn, thương ghét khôn lường.
 
                                  Đỗ Tư Nhơn

MƯỜI BÀI THƠ TỨ TUYỆT CỦA NGUYÊN LẠC


   
                             Nhà thơ Nguyên Lạc

 
1. ĐÊM CHIA PHÔI
 
Ngấn lệ từ li mặn đắng môi
Cho nhau cho hết lúc chia phôi
Hành trang cuộc lữ đêm tình giữ
Mai phố nghìn xa chút hương người

 
2. ĐÊM CUỐI NĂM
 
Chong khuya lệ nến tiếng đêm trôi
Sầu khúc Hương xưa dáng ai ngời?
Đón Tết nơi nầy đêm trắng quá!
Rơi chi bông tuyết buốt tim người?!

 
3. TRẦM TƯ ĐÊM BÊN SÔNG
 
Tóc rồi sương điểm theo năm tháng
Sắc cũng tàn phai theo tuổi đời
Ai xui trăng rụng trên dòng lắng
Một kiếp người thôi thế nhân ơi!
 
 
4. PHONG VŨ
 
Phong là gió nhưng chắc đâu là gió?
Vũ là mưa nhưng có phải mưa đâu?
Khanh ơi gác trọ dâng hương sắc
Phong vũ nghìn năm cố lý sầu!
 
 
5. ĐÊM MƯA THU
 
Giọt mưa nào lăn tròn trên lá nhớ?
Tí tách nào nhắc nhở thuở yêu em?
Trong ký ức tận cùng đêm mưa đó
Trăm năm dù dâu bể cũng không quên!
 
 
6. CĂN BỆNH TÌNH YÊU
 
Tình yêu căn bệnh lạ lùng
Ai mà nhiễm phải không khùng cũng điên
Điên thì ta hãy cứ điên!
Yêu thì ta cứ! Có phiền em không?
 
 
7. TỘI CHO QUA
 
Gió lay rụng trái mù u
Giận ai bậu nói đi tu cho rồi?
Tội cho qua lắm bậu ơi!
Bậu đi tu chắc sự đời qua xong!
 
 
8. ÁO HỞ DẬY THÌ
 
Mơ màng em giấc chiêm bao
Gió lay áo hở hoa đào phương phi
Anh nghe tiếng gọi tình si
Mãn khai hiển lộ dậy thì... điếng anh!
 
 
9. MÙI HƯƠNG ĐÊM NÀO
 
Cánh đồng trăng khuyết thầm thì
Ôm em thân quế nhu mì mến thương
Bể dâu một thuở đoạn trường
Thiên thu vẫn mãi mùi hương đêm nào!
 
 
10. GIÓ CHIỀU
 
Chiều nào gió nhẹ bên nương
Thổi em hở áo ngực hường chín cây
Có người không rượu mà say
Trăm năm vẫn nhớ ửng hây chiều chiều
 
                                           Nguyên Lạc

MƯA ĐÔNG HẠT MÉO HẠT TRÒN – Thơ Lê Phước Sinh


  
               Nhà thơ Lê Phước Sinh
 

MƯA ĐÔNG HẠT MÉO HẠT TRÒN
 
Chim Bói Cá nghiêng cổ nhìn trời
sợi mưa lơ lửng
lành lạnh
Thấp thoáng
điểm mặt cuối năm
cái ăn cái uống
dãn rộng ra
giờ phải co vào
bập bùng
khu trú
Mây xám thờ thững
đi tìm sợi nắng
lạc độ chốn nào
Tìm những vòng tay
bếp lửa
ma trơi
ẩn hiện.
 
Lê Phước Sinh

LÀ HỒ ĐIỆP, LẠI LỤC BÁT, LÊN XUỐNG – Thơ Chu Vương Miện


  


LÀ HỒ ĐIỆP
 
lúc lại là hồ điệp
lúc thôi đành Trang Sinh
nhẩm pho kinh một lúc
ờ tứ đại giai không?
hoa sứ rơi trên suối
đục trong chẩy một dòng
 
chuông thu không tịnh độ
danh lợi lầm bến mệ
chạy vội theo hư ảnh
quên mất luôn lối về
mấy vầng trăng cổ độ
trước mặt mất đàm khê
bên hông là đá lũng
ta là ai? bây giờ
 
gõ mãi trên mõ gỗ
dộng mãi quả chuông đồng
gỗ kêu theo âm gỗ
hồng chung vọng hồng chung
mỏi tay gần suốt kiếp
hiểu gì? được chữ không ?
 
niệm xong một bài kinh
con chim bay khuất khuất
chiếc lá giữa lòng đường
chờ tái sinh kiếp khác
ta vẫn chỉ là ta
sao kiếp xưa đi lạc
 

THƠ HAIKU, NGƯỜI ĐIÊN, CÁNH ĐỒNG TÌNH – Trần Mai Ngân


   


THƠ HAIKU
 
** Thế giới này
Bao nhiêu đường chim bay
Tôi mãi tìm ai…
 
** Khi nào tôi chết
Sẽ đẹp như mùa Thu
Không khóc!
 
** Để lại đôi dòng thơ
Tập di cảo ố vàng
Giấc Thuỵ Du!
 
** Một tia chớp giữa khuya
Bừng sáng đêm tăm tối
Soi đường cánh vạc bay
 
** Sự yên lặng của đá
Trăm năm, nghìn năm
Vọng âm lời cũ!
 
          Trần Mai Ngân
 
P/S: Kính nhớ Thầy Lưu Đức Trung

Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2022

ĐỊA LÀ ĐẤT - Phiếm luận của Đỗ Chiêu Đức



Thổ là Đất, Địa cũng là Đất, là Địa Cầu 地球 , là qủa đất mà chúng ta đang cư trú. Theo bài học thuộc lòng của lớp Đồng Ấu ngày xưa:
                   
Đi cho biết đó biết đây,                  
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.                  
Kìa thế giới năm châu quanh quất,                   
Đường bao nhiêu thì đất bấy nhiêu,                   
Sông to núi lớn cũng nhiều,                   
Đường đi lối lại trăm chiều ngổn ngang...
      
Thế giới có Năm Châu Bốn Biển.     
Năm Châu là:
       Châu Á, Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ và Châu Úc ( còn gọi là Châu Đại Dương  ). Nhưng theo quy ước của đa số các nước trên thế giới thì có đến 6 Châu, vì sau nầy người ta còn khám phá ra một vùng đất mới ở Nam Cực, gọi là Châu Nam Cực. Nhưng... lại nhưng, theo Mỹ thì Châu Mỹ gồm 2 châu lục là Nam Mỹ Châu và Bắc Mỹ Châu. Nên Thế Giới của người Mỹ có đến 7 châu lục, chớ không còn là 5 châu nữa ! Còn ...
      
Bốn Bể là bốn Đại Dương gồm có:
        Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương. Ngày trước còn có thêm một Nam Băng Dương nữa, vì người ta cứ ngỡ là nếu băng tan chảy hết thì sẽ là một đại dương như ở vùng Bắc Cực, nhưng nay đã biết rằng nó là một châu lục : Châu Nam Cực chớ không phải là một băng dương nữa !
 
                      

Bốn Biển là do từ Tứ Hải 四海 của người Hoa mà ra. Khi xưa, khoa học địa lý chưa phát triển, người Hoa cứ tưởng Thiên Hạ là đất Trung Nguyên, và mảnh đất nầy được bao quanh bởi 4 biển Đông Tây Nam Bắc. Theo cái Thế Giới Quan nầy, Bốn Biển tức là Thiên Hạ đó, cho nên trong thi từ ca phú của văn học xưa hay nhắc đến câu: Tứ Hải giai Huynh đệ 四海皆兄弟"Bốn bể đều là anh em". Vân du tứ hải 雲遊四海 là: Lang bạt khắp nơi, và để chứng tỏ có chí hơn người còn lớn giọng mà ngâm rằng: Đại trượng phu tứ hải vi gia 大丈夫四海為家 là: Đấng đại trượng phu thì lấy bốn biển làm nhà, để tỏ ra ta đây có chí lớn !
 

TINH THẦN BẤT NHỊ TRONG THƠ NGẮN ĐỖ NGHÊ - Tâm Nhiên


Tác giả Tâm Nhiên và nhà thơ bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Đỗ Nghê là bút hiệu của Đỗ Hồng Ngọc. Anh sinh năm 1940 tại Phan Thiết, Bình Thuận. Tốt nghiệp Tiến sỹ Y khoa Quốc gia, Sài Gòn (1969) là bác sỹ chuyên khoa Nhi.
 
Ngoài việc làm giảng viên tại Đại học Y khoa Sài Gòn, anh còn là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Viết nhiều thể loại đa dạng, đặc biệt gần đây, anh viết chuyên sâu về Phật học, Thiền học với các tác phẩm giá trị, được rất nhiều độc giả mến mộ, ưa thích.
 
Bình đạm mà thiết tha với thi ca, Đỗ Nghê đã xuất bản 6 thi phẩm, tập mới nhất gần đây là Thơ ngắn Đỗ Nghê, do Văn Hóa-Văn Nghệ xuất bản 2017. Mở đầu tập thơ là bài Trái đất:
 
Giữa đêm
Thức giấc
Giữa ngày...
 

MẸ QUÊ – Thơ Lê Kim Thượng


   
                      Nhà thơ Lê Kim Thượng
 

MẸ QUÊ 1-2
 
1.
Nhớ Quê… nhớ nhất bóng hình
Dòng sông – Bến nước – Mái đình – Cây đa
Người còn mê mãi phương xa
Quê hương giờ cũng chỉ là… “Quê xưa”…
Nắng xuyên qua lá cây dừa
Chênh chao bóng Mẹ, sớm trưa đi về
Quần nâu, áo vải, nón mê
Chợ tàn, mua gói kẹo quê làm quà
(Con giờ lưu lạc phương xa
Vẫn còn vị ngọt, đậm đà hương yêu…)
Vui vui tiếng vịt kêu chiều
Được mùa sân trước mọc nhiều đụn rơm
Óng vàng hạt lúa thảo thơm
Mồ hôi lắng đọng bát cơm ngọt đường
Gió hòa, mưa thuận… Trời thương
Ngát thơm hương lúa bên đường dịu êm…
Chiếu mê trải giữa sân thềm
Một nồi khoai luộc, khói lên nồng nàn
Bà ngồi kể chuyện khàn khàn
Truyện xưa, tích cổ… thế gian, dị thường…
 
2.
Đêm đêm, nằm nhớ Quê hương
Xót xa cho Kẻ Sông Tương ngược dòng
Một đời luân lạc, long đong
Một đời phiêu bạt, lưu vong dãi dầu
Xưa rồi: “ Người ạ… còn đâu?”
Tàn đêm khói thuốc bay màu mông lung
Cung Mi Thứ… Phím đàn chùng
Nốt Si buồn thảm lạnh lùng trong tim
Lời ca đứt đoạn im lìm
Tứ thơ rơi vãi lặng chìm giấc mơ
Nhà xưa… Ai đợi, ai chờ
Chiều mưa nỗi nhớ ướt mờ…vỡ tan
Còn đâu ô cửa Dạ Lan?
Cánh hoa Tuy Líp rã tàn trống trơn
Tàn đêm… giấc ngủ cô đơn
Tiếng gà xứ lạ dài hơn Quê mình
Bây giờ cuối cuộc hành trình
Bước ra từ cõi say tình rong chơi
Bây giờ đã cuối cuộc đời
Nghe câu “Gần đất… xa Trời” mà đau…
       
                 Nha Trang, tháng 11. 2022              
                       LÊ KIM THƯỢNG

MỘT CÕI BÓNG TỐI TRONG BA NGÀN THẾ GIỚI – Thơ Khaly Chàm



 
một cõi bóng tối trong ba ngàn thế giới
 
những ngẫu tượng không hề chớp mắt
tất nhiên, những hiện thể ấy chẳng nhìn thấy được gì
sự tái tạo hào quang tỏa sắc màu được lập trình quy chuẩn khi ma trận phát lệnh nhấp nháy
có thể, chúng sinh cúi quỳ mọp người sát đất tâm linh sẽ thoát ra từ khe hở giữa mông
huyền nhiệm nhưng đã chắc gì là có thật
 
xưng tội lỗi lầm rồi nguyện cầu
linh ứng chăng hay chỉ là mệnh giá của đức tin nhàn rỗi
mê muội ngắc ngứ lời kinh thẫn thờ mơ hồ cứu rỗi
sao tôi cứ mãi tưởng tượng loài kên kên háo hức trước vết thương lịch sử
đến khi nào ngừng thở sẽ được định nghĩa cho sự lãng quên
tôi ơi hãy tịnh tâm , lắng nghe những âm hồn vất vưởng khóc than trong giờ phút cuối cùng trôi qua quá khứ huy hoàng
 
thói quen tôi hay vuốt mặt thời gian nhạt nhòa ký ức
cố quên đi tiếng cười nói bầy đàn tự huyễn hoặc một thiên đường man rợ
lũ chúng nó ngạo nghễ chơi trò ướp xác con quỷ chờ ngày mở mắt
dường như rất hợp lý giữa một cõi bóng tối tanh tưởi máu người trong ba ngàn thế giới
hôm qua hay hôm nay vẫn là ngày với cơn điên mới
xin em đừng níu kéo tôi nghiêng ngả về phía giấc mơ
bởi vì, em không thể nhìn thấy được bản ngã tôi ẩn hiện lúc nào
đừng nói phẩm hạnh là gì khi bầu trời ban mai
em vội vàng đem những câu mật niệm quăng vào thùng rác ngoài đầu ngõ phố
 
                                                                                   khaly chàm
                                                                                mùa đông 2022

Thứ Năm, 24 tháng 11, 2022

“TRAU GIỒI” HAY “TRAU DỒI” ? – La Thụy



Mấy ngày nay, rảnh rỗi ngồi lướt net, đọc trên một số trang Facebook thấy bàn luận rôm rã về các từ ngữ “TRAU GIỒI” và “TRAU DỒI”. Phần nhiều những chủ trang face đó và những comments bên dưới đều cho rằng TRAU DỒI mới là từ ngữ đúng.
 
Tra Google để tìm kiếm, kết quả cho thấy:

"trau giồi" có 895 kết quả
"trau dồi" 12400 kết quả
 
Chỉ có trang face “Tiếng Việt giàu đẹp” và một số không nhiều trang mạng khác cho rằng TRAU GIỒI mới đúng
 
Tôi thử tra từ điển Hán Nôm về GIỒI và DỒI. Kết quả cho thấy:

GIỒI 𢬗
Chữ Nôm có bộ thủ (+6 nét) có trong từ TRAU GIỒI

DỒI
Chữ Nôm có bộ mễ (+9 nét) có trong từ MIẾNG DỒI
 
Thử tra các tự điển xem GIỒI, DỒI, TRAU, TRAU GIỒI (TRAU DỒI) được giải thích như thế nào?

* TỰ ĐIỂN VIỆT NAM của Ban Tu Thư Khai Trí:


GIỒI (đt)

Trau tria cho đẹp, cho bóng
Giồi mài, trau giồi, giồi phấn


GIỒI - TỰ ĐIỂN VIỆT NAM của Ban Tu Thư Khai Trí

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2022

KHÚC KHÓC THƯƠNG CON – Thơ Phạm Ngọc Thái


   
                 Con - Phạm Ngọc Bảo (7.3.1992 - 22.7.2019)
 

KHÚC KHÓC THƯƠNG CON
 
Con đi... để lại lòng u uất
Với một trời thương xót trong cha
27 năm ròng chăm bẵm con thơ
Gặp mối họa đời, chia đôi phụ tử.
 
Đường nhân thế, con ơi! Cha gần xuống lỗ
Con mùa xuân nở rộ như hoa
Sao thượng đế không nổi cơn lôi đình
                                         mà giết chết ta?
Để cho con tôi được bước đường thiên lý...
 
Nỗi lòng già ngày đêm vò xé
Cố làm nốt chút việc trần gian
Rồi đến với con trên tận thiên đàng
Cha con lại quấn bên nhau như mây gió
 
Mai hậu thế chắc sẽ cho cha một ngôi miếu nhỏ
Hãy đưa con tôi vào trong đó hưởng khói hương
Nó trong lành như ngọn cỏ, giọt sương
Là bảo vật của đời tôi nơi kiếp sống
 
Xin để lại dương trần, một trời thơ làm dấu ấn
Rằng, cõi vô thường tôi đã đi qua
Hạnh phúc, khổ đau, tươi đẹp, phong ba
Đều nếm trải tới tận cùng phận số
 
Chút hơi tàn lắt lay trước gió
Phải ôm vào lòng một nỗi thương tâm
Món nợ nghiệp đời, tôi đã trả xong
Trút vào đứa con ngoan, Đức Phật ơi sao nỡ?
 
Thôi thì... chắp tay vái mong trời phù hộ
Ván bài cuối cùng tôi đã bầy lên
Nay dẫu đi !... Còn những người thân
Đang trôi nổi bến bờ, vương vất
 
Vì tham vọng đường văn chương quá mức
Làm khổ lây bao thân phận sống bên tôi
Sự nghiệp riêng đã mỹ mãn cuộc đời
Xin chút lãi từ ván cờ người,
                      để an lòng nhắm mắt...
 
Cha con tôi lại dạt bay trời, đất
Nghe dưới trần vẫn nhắc vọng ca thi
Đến thiên thu truyền kể chuyện hôm ni
Đọc "khúc khóc thương con", xin thắp vòng nhang khói.
 
                                                         Hà Nội, Đêm viện E
                                                               16.11.2022
                                                            Phạm Ngọc Thái

THIÊN LÀ TRỜI - Phiếm luận của Đỗ Chiêu Đức


         
Thiên là Trời, Thiên là Một Ngàn, Thiên là Thiên Lệch, Thiên là Di Dời ... Ở đây, ta chỉ nói đến chữ Thiên là Trời, là phần không gian ở trên đầu của ta mà thôi. Theo "Chữ Nho ...Dễ Học", ta có chữ Nhân là người được viết như thế nầy . Đây là chữ Tượng Hình đơn giản nhất, cơ bản nhất và cũng... Tượng hình nhất: Hình người đứng xoạc 2 chân hiên ngang giữa trời đất đúng như sách Tam Tự Kinh ngày xưa dạy: Tam tài giả, THIÊN ĐỊA NHÂN 三才者,天地人。(TAM TÀI là TRỜI, ĐẤT và NGƯỜI). Con Người là một thành viên của vũ trụ, hợp với Trời và Đất tạo nên cái thế giới nầy!
 
Nên ...        
Khi cần diễn tả sự to lớn thì chữ nhân dang thêm hai tay ra theo lối CHỈ SỰ 指事  ( Mượn việc dang hai ta ra để chỉ sự to lớn gọi là Chỉ Sự  ) thành chữ ĐẠI ,  theo diễn tiến của chữ viết sau đây :
 
 
     
Giáp Cốt Văn        Đại Triện             Tiểu Triện              Lệ Thư
  

HẾT CÓ RỒI TỚI KHÔNG, HỌC VỚI HÀNH, HOA – Thơ Chu Vương Miện


  

 
HẾT CÓ RỒI TỚI KHÔNG
 
hết không rồi tới có
người dìu dặt bướm ong
người hai tay một xó
có dễ thì có khó
có mưa thì có dông
 
nói là bạc im là vàng
vàng giả
thiếu cà ra
nói rất là mất đoàn kết
im lặng tốt hơn hết
câm là vàng tốt
nói toạc móng heo
là thèo lèo cứt chuột
vàng giả vàng mã
chưa được tốt