NGƯỜI VỢ CỦA BÙI GIÁNG - Vũ Đức Sao Biển
Đọc thơ Bùi Giáng, người ta nghĩ ông chỉ có những tình
yêu viễn mộng. Ít ai biết ông đã có một người vợ đẹp và những bài thơ tình hay
nhất của ông là dành cho vợ. Người phụ nữ ấy chỉ sống với ông trên đời có 3 năm.
Tháng 7.2012, tôi trở lại thăm quê nhà ông – làng
Thanh Châu (xã Duy Châu, Duy Xuyên, Quảng Nam). Ghé thăm nhà thờ tộc Bùi, được
người phụ nữ chăm lo hương khói nơi đây cho xem gia phả của tộc. Qua câu chuyện,
tôi khẳng định một điều mới mẻ: Nhà thơ Bùi Giáng đã có vợ. Hình tượng của bà
và tình thương yêu, tiếc nuối ông dành cho bà là nội dung chủ đạo trong 4 tập
thơ của ông: Mưa nguồn, Lá hoa cồn, Ngàn
thu rớt hột và Màu hoa trên ngàn (in tại Sài Gòn từ năm 1962 – 1964).
Bà nhớ lại Bùi Giáng được cha mẹ cưới vợ cho năm 1945,
khi ông vừa 19 tuổi. Hôn nhân ngày trước thường do cha mẹ đôi bên sắp đặt. Có lẽ,
cuộc hôn nhân của Bùi Giáng cũng không đi ra ngoài quy ước đó. Người phụ nữ giữ
nhà thờ tộc Bùi xác nhận: “Chị Bùi Giáng
về làm dâu nhà ông bà bác tôi (cụ Bùi Thuyên và bà Huỳnh Thị Kiền – cha mẹ ông
Bùi Giáng) năm 18 tuổi. Chị là người Duy Xuyên, đẹp lắm, tóc dài da trắng cái
chi cũng đẹp. Tên thật của chị là Vạn Ninh”.
Tất cả thành viên trong gia đình đều quý yêu bà chị
dâu trẻ. Ông Bùi Luân – em ruột Bùi Giáng – tỏ lòng quý mến của mình với người
chị dâu trong tập thơ Chớp biển của Bùi Giáng in tại Canada năm 1996:
“Phải
nhận là chị xinh đẹp, cởi mở, vui tính, hồn nhiên… Gương mặt chị, hình ảnh chị
đã nổi bật, sáng ngời mãi trong ký ức tôi. Duy có điều bất cứ ai, dù không biết
gì nhiều về tướng số, gặp chị là cũng nhận ra ngay: Chị không thể ở lâu với
chúng ta trên cõi đời này, dù cõi đời vốn đã ngắn ngủi. Lấy chồng được ba năm,
chị đã đột ngột lìa đời lúc mới ngoài hai mươi tuổi… Chị trút hơi thở một cách
bình thản”.
Vợ chồng Bùi Giáng được cha mẹ cho một khu vườn đẹp ở
làng Trung Phước để lập nghiệp. Trung Phước là thung lũng trù phú ven sông Thu,
kế cận mỏ than huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam ngày nay. Làng Trung Phước cách
Thanh Châu trên dưới ba chục cây số. Có lẽ cuộc hôn nhân của lứa đôi trẻ trung
này giữa miền đất Trung Phước không được êm ấm cho lắm. Ông Bùi Luân viết tiếp:
“Chỉ
một thời gian ngắn sau ngày cưới, người vợ trẻ đã phải lặn lội từ cái thung
lũng ngoạn mục nhất đó, xuôi sông Thu Bồn êm đềm với ngàn dâu xanh ngát, về nhà
bố mẹ chồng ở Thanh Châu cách hàng mấy chục cây số. Trên chiếc đò bé nhỏ, chàng
trai nói với người vợ trẻ: Nếu em không đổi ý quay về, không bỏ qua chuyện cũ
thì tôi sẽ… nhảy ra khỏi đò!
Khách
xuôi đò tưởng người con trai đùa dọa người vợ mảnh dẻ. Để nguyên quần áo, ngay
lập tức anh mình gieo xuống giữa dòng sông Thu. Và bơi theo đò. Để rồi thả trôi
theo dòng nước hết chỗ mấy chục cây số đó, tới tận bến nhà”.
“Bỏ
qua chuyện cũ” là chuyện gì? Đó là một chuyện hết sức tức
cười và trẻ con. Ông Bùi Luân tiết lộ:
“Cô
con dâu đứng bên bà mẹ chồng sụt sùi: Anh cho con ăn toàn khoai lang và rau luộc.
Anh không cho con mua cá mua thịt…”.
Thì ra, Bùi Giáng đã… đi trước thời đại chúng ta về chủ
trương… ăn chay. Ông hiểu một cách tuyệt đối thế nào đó về ẩm thực dưỡng sinh,
nên chỉ thuận cho cô vợ ăn rau cải, củ quả mà không cho phép bà ăn gà, bò – hai
món thịt ngon nhất của vùng Trung Phước.
Người vợ qua đời năm 1948 khi Bùi Giáng vắng nhà. Ông
Bùi Luân viết tiếp: “Phút lâm chung, chị
không thấy mặt chồng… Tôi chỉ biết là anh có mặt vào phút chót của buổi tiễn
đưa chị về nơi an nghỉ cuối cùng – anh đứng bên cạnh chiếc quan tài với vành
khăn trắng trên đầu”.
Bùi Giáng yêu vợ nhưng vẫn muốn… bỏ nhà đi chơi. Cũng
bình thường như bao nhiêu người đàn ông Quảng Nam lãng mạn khi xa vợ, Bùi Giáng
có thể gặp gỡ, giao lưu với những người phụ nữ khác và nhận ra họ vượt trội vợ
ông về một vài phương diện nào đó. Thế nhưng, tình yêu và nỗi xót xa dành cho
người vợ ở quê nhà thì rất đỗi mặn mà, vô cùng tha thiết: “Mình ơi, tôi gọi bằng nhà/Nhà ơi, tôi gọi mình là nhà tôi”.
Hai năm sau cái chết của người vợ trẻ, ông dẫn một bầy
dê lên Nông Sơn chăn thả, ngao du qua những đồi núi, suối khe mơ màng để nhớ
thương vợ. Hai năm sau đó nữa, ông gửi bầy dê lại cho… chuồn chuồn và châu chấu,
bỏ quê nhà đi chơi tiếp. Ở đâu, ông cũng phục hiện những hình ảnh yêu dấu xưa.
Bài thơ nhớ vợ có một không khí rất đỗi bi ai, tràn đầy hoài cảm:
Em
chết bên bờ lúa
Để
lại trên lối mòn
Một
dấu chân bước của
Một
bàn chân bé con!
Anh
qua trời cao nguyên
Nhìn
mây buồn bữa nọ
Gió
cuồng mưa khóc điên
Trăng
cuồng khuya trốn gió.
Mười
năm sau xuống ruộng
Đếm
lại lúa bờ liền
Máu
trong mình mòn ruỗng
Xương
trong mình rả riêng.
Anh
đi về đô hội
Ngắm
phố thị mơ màng
Anh
vùi thân trong tội lỗi
Chợt
đêm nào, gió bờ nọ bay sang.
Bùi Giáng bỏ cố quận ra đi biền biệt. Ra đi nhưng ông
vẫn nhớ, đến tha thiết não nùng. Nhớ nhưng ông không dám trở về bởi nơi nào ở cố
quận cũng nhắc ông nghĩ đến tình yêu của người vợ khổ.
Ông gọi bà với nhiều tên gọi khác nhau. Đầu tiên, bà
được gọi là “gái trần gian”. Ông có
thể gặp gỡ, cười đùa, tán tỉnh cả trăm người phụ nữ khác nhưng lòng ông chỉ yêu
và chỉ nhớ mỗi mình bà, đặc biệt những khi ông còn lại một mình, đối mặt với
chính tâm thức cô đơn của mình: “Đùa với
Tuyết, giỡn với Vân. Một mình nhớ mãi gái trần gian xa. Sương buổi sớm, nắng
chiều tà. Trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu?”.
Thứ hai, ông gọi bà là “con mọi nhỏ”. Người Duy Xuyên có lệ thương yêu ai thì gọi người ấy
là “con mọi”, “thằng mọi”. Tôi lấy làm tiếc khi có vài người nghiên cứu văn học
hiểu nhầm chữ “mọi” trong thơ Bùi
Giáng: “Mọi em là mọi sương xuân. Ban sơ
núi đỏ chào mừng non xanh”. Thơ ông viết cho “con mọi nhỏ” của mình tràn đầy nỗi thương xót và tình yêu dấu: “Giờ ly biệt, ta xin em đừng khóc. Nào phải
không? Lệ chảy có vui gì? Trang phượng mở giữa nguồn em hãy đọc. Nước xuôi
dòng, ngàn thu hận ra đi”.
Ông phong tặng người vợ của mình – con mọi nhỏ, lên
thành mẹ của giang san: “Em thành Mẹ của
giang san. Em là thần nữ đoạn trường chở che”. Thơ ông viết cho vợ càng lúc
càng trang trọng. Tất cả cái mẫu tính dịu dàng, hồn nhiên, tươi đẹp, đôn hậu
toát lên từ con người của bà Bùi Giáng khiến ông cảm phục vợ. Từ một con người
cụ thể, mảnh mai, bà vụt trở thành hình tượng cao quý nhất trong lòng ông,
trong thơ ông: “Em thuyền quyên ban mưa
móc xum xuê. Em rắc gieo khắp xứ sở bốn bề. Suốt địa hạt tình quê hương ba ngõ.
Anh quỳ xuống gọi em: Em mọi nhỏ”.
Lắm khi ở phương xa, ông nhớ cố quận. Qua mấy mươi
năm, hình ảnh người vợ trẻ, hiền ngoan ấy vẫn sống trong lòng ông. Ông uống trà
giữa Sài Gòn mà hình ảnh của bà ngày xưa ở Quảng Nam như hiển hiện trước mắt: “Trung niên thi sĩ uống trà. Thưa em mọi nhỏ,
em đà uống chưa?”. Một nửa cuộc đời ông, một nửa trái tim ông dành để nhớ
bà.
Vũ Đức Sao Biển
Nguồn:
http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/VuDucSaoBien/NguoiVoCuaBuiGiang-VDSBien.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :
Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ