Sách in màu, bìa cứng, dày 412 trang
Thạch Ngữ xuất bản 2021
Biên tập: Nguyễn Tường Giang
Đọc bản thảo: Trần Thị Nguyệt Mai & Nguyễn Tường
Giang
Thiết kế hình ảnh: Nguyễn Tường Tâm
Thiết kế bìa: Đinh Trường Chinh
Chân dung tác giả trang bìa: Họa sĩ Thanh Trí
Trình bầy và Dàn trang: Nguyễn Đồng
Chân thành cảm ơn Nhà văn Nguyễn Tường Nhung
và Bác sĩ / Nhà thơ Nguyễn Tường Giang cùng Nhà xuất bản
Thạch Ngữ.
Độc giả có thể mua sách trên mạng qua link này:
https://www.barnesandnoble.com/w/thang-ngay-qua-nhung-nguyen-tuong/1140528038?ean=9798765508541
oOo
Trích giới thiệu từ bìa sau
Thạch Lam, nhà văn tài hoa trong Tự Lực Văn Đoàn, ông
sống một cuộc đời giản dị và thanh bạch. Ông mất đi khi còn trẻ, để lại một vợ
và ba con thơ. Tác giả Nguyễn Tường Nhung là con gái đầu của ông, lúc đó mới
sáu tuổi, đã phải phụ giúp mẹ trong cuộc sống khó khăn, thiếu thốn trăm bề. Đọc
những trang hồi ức của tác giả để thấy lại sức phấn đấu, nhẫn nại của phụ nữ Việt
Nam trong thời nhiễu nhương những năm tháng chiến tranh…
Tướng Ngô Quang Trưởng là một vị tướng nổi danh trong
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, được coi là trong sạch, liêm khiết và đức độ. Người
ta chỉ biết đến tài chỉ huy quân sự của ông, nhưng ít ai biết về đời sống gia
đình thường ngày và nhất là cuộc sống của ông khi lưu vong nơi xứ người. Hồi ức
Tháng Ngày Qua đã soi tỏ một đời sống có thể nói là quá bình thường của vị tướng
lãnh quyền lực nhưng đầy lòng nhân hậu, đồng cảm thương xót quân nhân thuộc cấp.
Ông cũng là một người chồng đầy tình cảm lãng mạn, một người cha nhiều trách
nhiệm, đã sống một cuộc đời khiêm nhường, khép kín nhưng có lẽ thật bình yên, hạnh
phúc như một di dân tị nạn tại Hoa Kỳ…
Nhà xuất bản Thạch Ngữ
*
Đây không chỉ thuần là một tập hồi ức, mà còn là những
trang tư liệu rất quý về gia đình nhà văn Thạch Lam và tướng Ngô Quang Trưởng,
một trong những vị tướng lãnh rất giỏi và trong sạch của Quân lực VNCH, được
thuộc cấp nế phục. Và riêng tôi cũng rất kính phục và ngưỡng mộ từ đã rất lâu…
Tác giả tuy là vợ tướng lãnh một vùng, nhưng bà sống rất giản dị, bình dân, lo
cho chồng, cho con, biết thông cảm với mọi người. Những đoạn viết về thời tuổi
trẻ quá cơ cực của bà dễ làm độc giả chảy nước mắt…
Nhà thơ Trần Thị Nguyệt Mai
https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2022/01/14/thang-ngay-qua-hoi-uc-cua-nguyen-tuong-nhung/
*
Tôi rất hân hạnh được là một trong những độc giả đầu
tiên khi cuốn sách “Tháng Ngày Qua”
(*) – Hồi ức của Nhà văn Nguyễn Tường Nhung, chỉ mới là những trang bản thảo rời.
Tác giả là trưởng nữ của Nhà văn Thạch Lam và cũng là phu nhân của Trung Tướng
Ngô Quang Trưởng, một trong những vị tướng lãnh xuất sắc và trong sạch của Quân
Lực VNCH. Cuốn sách hé mở cho chúng ta rõ hơn không chỉ về thân thế của hai gia
đình rất nổi tiếng - Thạch Lam và Ngô Quang Trưởng - mà còn như một cuốn phim
quay lại hình ảnh xã hội thời kỳ chiến tranh Việt Pháp và chiến tranh Việt Nam
cận đại, hiển hiện nỗi khổ đau tận cùng khi mất mát cả tài sản lẫn những người
thân yêu nhất trong đời, nỗi lo âu của người vợ lính khi chồng ra chiến trận và
phút giây lãng mạn hạnh phúc khi chinh nhân trở về... Những ngày Tết Mậu Thân
1968 kinh hoàng thảm thương ở Huế cũng được ghi lại một cách sống động.
Khi viết về văn chương Thạch Lam, nhà văn Mai Thảo đã
dùng những lời ngợi khen đẹp nhất: “bút
pháp chuốt lọc, trong sáng và chính xác nhất của văn xuôi tiền chiến” (1). “Bút pháp chính xác ông mãi mãi là một vinh
dự cho tiếng Việt, theo ý tôi” (2). “Những
trang tiểu thuyết đôn hậu và chứa chan tình cảm của Thạch Lam” (3) đã đi
vào và ở mãi trong tâm hồn người đọc với Gió Lạnh Đầu Mùa, Nhà Mẹ Lê, Hai đứa
trẻ, v.v... Đọc “Tháng Ngày Qua” càng
thấy rõ hơn “văn chính là người”, để
càng yêu mến Ông hơn.
Trong đậm sâu trí nhớ của tác giả ngày ấy, khi còn là
một cô bé 6 tuổi, vẫn còn hiện rõ hình ảnh Bố Thạch Lam:
Bố
tôi rất cao, da trắng hồng trông như lai Tây vậy. Ông hay mặc bộ vét màu kem nhạt
may bằng hàng vải đũi, đầu luôn đội cái mũ phớt, chân đi giày tây, lúc nào cũng
bóng loáng. Quần áo của bố tôi lúc nào cũng phải là thẳng tắp. Bố tôi rất ngăn
nắp, thứ tự và rất quý sách. Ông có một tủ sách bìa mạ chữ vàng được xếp rất
ngăn nắp. (sđd, tr. 20)
Và Mẹ, bà Thạch Lam, người vợ mà Ông rất yêu thương:
Mẹ
tôi hơn bố tôi vài tuổi. Bà tuy hơi thấp so với bố tôi, nhưng bà rất đẹp và rất
khéo chiều bố tôi. Bà hiểu rõ rất tỉ mỉ từng chi tiết, những sở thích của bố
tôi và tôn trọng tất cả những gì mà bố tôi quyết định. Cà phê mà bố tôi uống mỗi
buổi sáng phải chính tay mẹ tôi pha. (sđd, tr. 22)
Cô vẫn nhớ như in sở thích ăn uống rất giản dị của Bố:
Thức
ăn bố tôi không đòi hỏi phải nhiều thịt, cá hay thịnh soạn, nhưng món gì cũng
phải thật tinh khiết, sạch sẽ, bày cho gọn và đẹp mắt. Bố tôi thích những món
ăn thanh như canh giò sống nấu rau ngót, cải xanh nấu cá rô, rau muống luộc, đậu
hũ chiên tẩm hành lá hay cá chép rán vàng, và tuyệt đối không bao giờ được dọn
món ăn mà đã dọn ăn ngày hôm trước. (sđd, tr. 23)
Cộng thêm thói quen đơn sơ nhưng rất hạnh phúc của Ông
sau bữa cơm chiều:
Ăn
cơm xong bố tôi có thói quen ra ngồi ngoài hiên trước nhà để ngắm cảnh. Tuy đã
về chiều nhưng cũng còn một vài chiếc thuyền, trên chở những cặp tình nhân. Họ
chèo thật chậm nhìn ngắm mặt trời lặn và thủ thỉ những lời âu yếm. Bố tôi lúc
nào cũng rủ mẹ tôi ra cùng ngồi và trò chuyện tâm tình cùng mẹ. Bố tôi ít nói,
nhưng khi nói thì đã diễn tả hết ý mình. (sđd, tr. 22)
Đặc biệt là tính thương người vô cùng tận của Ông, để
thấy tại sao văn chương Thạch Lam cũng giống như người:
Bố
tôi rất khó tính và ít khi cười nhưng lại rất thương người. Có thời gian nhà có
một anh phu xe để kéo xe cho bố tôi đi làm hàng ngày. Nhưng khi trời mưa thì bố
tôi bảo mưa ướt tội nghiệp, khi nắng thì bố tôi cũng bảo nóng quá kéo xe mệt,
và thấy anh kéo xe đổ mồ hôi thì cũng không đành. Rút cuộc bố tôi lại đi xe
ngoài để đi làm. (sđd, tr. 23)
Nhà văn Thạch Lam mất rất sớm lúc mới ngoài 30 tuổi,
khi văn tài đang vào độ sung mãn. Ngày ấy tác giả chỉ mới 6 tuổi, có hai em trai,
một lên 3 và một mới sinh được 3 ngày. Đang từ một cô bé được bố rất yêu chiều:
Tối
nào sau khi ăn cơm xong bố tôi cũng gọi tôi vào phòng sách chỗ bố tôi ngồi hàng
đêm để viết văn. Trên bàn viết của bố tôi ngoài những giấy, bút, đặc biệt có một
lọ kẹo tây. Những viên kẹo đủ màu sắc hồng lạt, đỏ, xanh, trắng, đựng trong chiếc
lọ bằng thủy tinh trông thật đẹp mắt và thật là muốn ăn. Bố tôi mở nắp lọ, mùi
kẹo bay thật thơm. Bố tôi lấy ra cho tôi một cái...
(sđd, tr. 23 & 24)
Cô trở thành đứa trẻ mồ côi cha. Sau đám tang vài
tháng, “bà nội tôi cho người lên Hà Nội
đón mẹ và ba chị em chúng tôi về trại Cẩm Giàng. Trại rộng hai mẫu tây, khang
trang, nằm cách ga tàu hỏa khoảng hơn cây số. Hai cánh cổng chính của trại khá
to, sơn màu xanh, giàn hoa tỉ muội màu hồng nhạt leo chung quanh” (sđd, tr.
27). Từ đây, gia đình cô rời bỏ “căn nhà
nhỏ nhưng rất thơ mộng ở tại đầu làng Yên Phụ, ngay cạnh hồ Tây có cây liễu rủ,
tàn liễu sà xuống gần mặt nước hồ... Đường từ ngoài vào làng toàn lót bằng gạch
đỏ. Trên đường đi chỗ nào cũng nhìn thấy nước hồ... Đi sâu vào trong làng rất đẹp,
hai bên là những hàng rào trồng bằng cây duối, được cắt thật bằng phẳng. Khi tới
mùa quả duối chín vàng trông xa như những sợi tơ tằm óng ánh... Từ đó tôi chưa
có dịp trở về lại làng Yên Phụ nữa” (sđd, tr. 25)
Hình ảnh Bà Nội, người Mẹ hiền sinh ra những người con
thuộc nhóm khai sáng Tự Lực Văn Đoàn đã góp công rất lớn trong việc hiện đại
hóa xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XX qua báo chí và tiểu thuyết, với “tôn chỉ” được công bố trên báo Phong
Hóa số 101 ngày 8 tháng 6 năm 1934 gồm 10 điểm, đúc kết lại trong nội dung: “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn
đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả
quý phái. Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời
nữa. Đem phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam” (4):
Bà
Nội dáng người cao to, nước da trắng hồng, gò má hơi cao, đôi mắt sáng, sâu,
trông như lai, toát ra một vẻ oai nghiêm cương nghị. Bà rất nghiêm khắc và ít
khi cười. Nhưng khi bà cười thì nụ cười thật tươi, lộ hàm răng đen. Bà nói giọng
Huế nghe hay hay và lạ. … Bà ăn uống cầu kỳ, kiểu cách. Bát ăn bằng men xanh trắng
viền chỉ vàng, đũa ngà, mâm bằng đồng thau sáng loáng. Khi ăn phải từ tốn, thức
ăn cũng phải sắp thứ tự, rau muống luộc để ra đĩa, cọng và lá không lẫn lộn, cắt
ra làm hai, khi chấm chỉ vừa đụng vào nước chấm, cơm chỉ được xới một nửa
bát... (sđd, tr. 30 & 31)
Bà
rất kiên cường, thật giỏi, can đảm. Khi ông mất bà còn rất trẻ, chưa tới 40. Một
tay bà phải chăm sóc mẹ chồng và bảy người con còn niên thiếu mà vốn liếng chỉ
là một tiệm tạp hóa nhỏ, bán những thứ lặt vặt như kim chỉ, muối, đường, diêm,
nến, vài lọ kẹo bột, kẹo gừng, v.v... lời lỗ chẳng được bao nhiêu. Nhưng nhờ
vào việc cân gạo, cứ mỗi sáng sớm tinh mơ, những dân ở các làng lân cận đem gạo
lên bán, từng gánh hoặc thúng có khi chỉ mươi đấu đựng trong cái bị đan bằng
cói. Bà gom mua lại để bán lẻ, khách hàng là những gia đình nghèo sống rải rác
quanh phố chợ. Nhờ tài quán xuyến bà đã cho các con ăn học...
(sđd, tr. 32 & 33) Một tay bà đã gây
dựng được một gia đình làm rạng danh cho dòng họ, những văn tài đã để lại cho
những thế hệ nối tiếp (sđd, tr. 46). Sau
này, khi các con trai đã thành danh, bà xuống tóc xuất gia cửa Phật và ít khi về
lại trại. (sđd, tr. 33)
Cuộc
sống êm đềm yên ả chẳng bao lâu thì loạn lạc xảy ra, chiến tranh Việt Pháp bùng
nổ. Năm 1946, một đêm phố chợ Cẩm Giàng bùng lên bốc cháy, khói bay mù mịt cả một
góc trời (sđd, tr. 82). Giữa
đêm đang ngủ, U (là vú em, người nuôi cậu em kế) lay cô dậy để cùng Mẹ, hai em
và U gánh gồng đi lánh nạn, đến tạm cư ở Xóm Đìa, cách Nhã Nam khoảng 5, 7 cây
số, “một xóm rất nghèo, chỉ có khoảng mươi căn, phần đông đều lợp bằng lá, và sống
bằng ruộng nương nhưng là ruộng thuê lại gọi là cấy rẽ” (sđd, tr. 35). Đến
đây, U từ biệt về quê. Và cuộc đời của cô bắt đầu lật sang một trang mới với rất
nhiều vất vả, khó khăn.
“Khi
đến Xóm Đìa, vài nhà quanh xóm cũng đã có mấy người tản cư tá túc. Chúng tôi được
chủ nhà tên Nhâm cho ở nhờ. Ông cho dọn dẹp cho chúng tôi ở nhờ trong cái kho
nhỏ, thường để chứa những dụng cụ nhà nông như cuốc, xẻng, cày, bừa, dao liềm,
v.v... và chỗ nằm của con vện đen. Cái kho lợp bằng rạ, vách trát bùn trộn rơm
đã cũ, vách có nhiều lỗ thủng, cửa là cái phên đan bằng nứa có gắn một thanh
tre để chống lên chống xuống. Bên trong, vẻn vẹn chỉ có một cái giường bằng gỗ
vừa đủ cho bốn mẹ con nằm, bên cạnh giường kê ba hòn gạch chụm lại gọi là ông đồ
bếp (theo ngôn ngữ lúc đó) để thổi nấu. Tắm rửa hàng ngày thì ra ngoài ao. Nước
uống và nước thổi cơm thì phải vào tận cuối xóm gánh về; cả xóm đều dùng nước
giếng ấy (sđd, tr. 35). Những
ngày đầu thật bỡ ngỡ. Một khung cảnh quá cách biệt. Chúng tôi như rơi vào một
cơn ác mộng. Căn nhà kho chứa đồ vật dụng bẩn thỉu, chật hẹp, một chỗ thua cả
chuồng chó ở trại Cẩm Giàng của gia đình chúng tôi (sđd, tr. 64). Mùa đông đến đem theo hơi lạnh, gió rét của
miền rừng núi. Bốn mẹ con co ro trên một cái phản gỗ, đắp một cái chiếu cũng đã
cũ. Mẹ đầu bên này, tôi đầu bên kia, kéo qua kéo lại. Con ấm thì mẹ lạnh và ngược
lại. Hai cậu em thì còn nhỏ ngủ vô tư. (sđd, tr. 69).
“Những
năm đầu Mẹ còn có chút tiền đem theo, chúng tôi có cơm gạo trắng, có chút ít thịt,
cá”
(sđd, tr. 64). Đến khi hết tiền và bán đi
tất cả những thứ đã mang theo, thì “Mẹ sắp xếp cho tôi theo mấy cô trong xóm đi
buôn cà chua và su hào, mỗi tuần hai phiên chợ ngoài thị trấn Nhã Nam. Phải dậy
từ sáng tinh mơ vào vườn cà chua hoặc su hào họ đã hái sẵn rồi tùy sức của mỗi
người gánh được nhiều hay ít... tiền lãi cũng tạm để mua gạo có cơm trộn khoai
hay sắn. Các em thì vào rừng nhặt củi khô và nấm hạt dẻ (sđd, tr. 36). Thấy con quá vất vả mà chẳng kiếm được bao
nhiêu, nên khi được chủ nhà cho mượn toàn bộ đồ nghề và có người cho mua thóc
chịu, hai mẹ con chuyển qua nghề làm hàng xáo, tức là “xay thóc, sàng bỏ trấu
đi. Sau đó bỏ vào cối giã rồi vần, sảy cho cám và tấm rớt ra” (sđd, tr. 67)
cũng cực nhọc nhưng “lãi được tấm để ăn,
cám bán lấy tiền mua rau, muối, tương, cà. Nếu được thóc tốt thì thừa ra một ít
gạo. Những lần như vậy mấy mẹ con mừng lắm, nhưng cũng phải độn thêm khoai hoặc
sắn. Khi mùa gặt đến chúng tôi đi mót lúa... Thỉnh thoảng tôi đi theo mấy đứa bạn
đi hôi cá... Từ khi mẹ hết tiền chưa hôm nào được ăn no và được ăn không độn.
Thịt lợn, thịt bò thì xa lánh hẳn, gặp
mùa gà bị toi là lúc mới thấy mùi gà.
...
Ngày
tháng vẫn trôi qua. Mẹ tôi không dám tự mình hồi cư vì mịt mù tin tức, sợ bị
Tây bắt. Thấm thoắt đã gần ba năm, chị em chúng tôi mỗi người chỉ có hai bộ áo
quần đã rách tả tơi” (sđd, tr. 37).
Trong
lúc ấy, Bà Nội “rất lo lắng vì từ khi chạy tản cư đã gần ba năm mấy mẹ con
chúng tôi biệt vô âm tín”, nên “thuê người đi tìm mẹ con chúng tôi”
(sđd, tr. 38). Bà Nội đã giữ gìn cho các
cháu: “Nếu không có Bà Nội có thể tôi đã là một nữ cán bộ và các em có thể là bộ
đội hay bệnh hoạn vùi thây nơi rừng thiêng nước độc này!” (sđd, tr. 39).
Về
lại Phố Chợ Cẩm Giàng, gặp lại bạn cũ, cũng là lúc cô “thật ngỡ ngàng không thể
tin được. Một trang trại rộng lớn đẹp như thế ... bây giờ chỉ là bãi đất
hoang.” Bạn cô cho biết, “Khi Việt Minh rút đi họ đã đốt, đập phá hủy tất cả những
dinh thự họ gọi là tiêu thổ kháng chiến. Nghe nói vậy tôi ngẩn ngơ vì không hiểu
tại sao Việt Minh lại làm như vậy. Phá mất đi một trang trại nổi tiếng là đẹp,
nên khi những chuyến tàu chạy ngang đây có nhiều người giơ máy chụp ảnh, và tôi không còn được
ở đây nữa.” (sđd, tr. 41).
“Bắt
đầu từ khi rời khỏi trại Cẩm Giàng, líu ríu dắt ba đứa con chạy tản cư, hồi cư
về thành, cơ nghiệp không còn gì. Mẹ rất nghèo, nhờ Bà Nội giúp một phần, mẹ tần
tảo, bươn chải nuôi con ăn học” (sđd, tr. 92). Và năm 1953 Bà Nội đã “đích thân đến nhà ông
Thám (Tổng Giám đốc Bưu điện Việt Nam) để xin cho mẹ tôi một việc làm... Lương
tuy thấp nhưng cũng đủ sống cả mấy mẹ con và lại có nhà ở hai buồng nhỏ, có bếp,
bể chứa nước, trong cư xá Bưu điện đằng sau Nhà Hát Lớn, trước cửa Nhà Bác Cổ
Hà Nội.” (sđd, tr. 46 & 47)
Sau này, người thiếu nữ ấy gặp Trung úy Ngô Quang Trưởng
và khi kết hôn với nhau thì ông đã lên cấp Đại úy, Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 5 Nhảy
Dù. Cuốn sách đã chia sẻ cuộc đời binh nghiệp của ông Ngô Quang Trưởng bắt đầu
từ lúc này. “Anh tham gia trận chiến nhiều
hơn làm việc ở văn phòng. Mỗi lần đi hai tới ba tuần mới trở lại đơn vị. Khi trở
về anh đã gầy lại gầy hơn, mặt sạm đen, đôi khi bị nổi ngứa khắp cả người.
(sđd, tr. 130). Sau đó, được “đổi về Bộ
Tư Lệnh Sư Đoàn đóng ở Sài Gòn (sđd, tr. 139). “Khoảng thời gian này anh không phải ra trận liên miên như khi còn ở Tiểu
Đoàn. Chỉ đi thị sát, và đôi lần anh phải bay ra miền Trung để cùng chỉ huy
tham dự những trận đánh do quân Bắc Việt tấn công.” (sđd, tr. 140)
Hơn một năm sau, “khoảng
đầu năm 1966, ngay tại thành phố Huế, tình hình khá gay cấn. Dân chúng biểu
tình chống đối chính quyền bằng cách đem bàn thờ Phật để ngoài đường phố... Anh
được Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (UBHPTU) bổ
nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1/BB, Bộ Tư Lệnh đóng tại Thành Nội Huế.
(sđd, tr. 150)
Ở Huế 5 năm, Ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn 4
ở Cần Thơ và “rất bận rộn, thời gian ở
trên trực thăng nhiều hơn dưới đất. Chỉnh đốn lại Địa Phương Quân, Nghĩa Quân,
thăm các tỉnh, các quận, đồn bót, v.v...” (sđd, tr. 196)
Sau hơn hai năm trấn nhậm ở miền Nam hiền hòa, “Anh nhận được lệnh thuyên chuyển không dự
tính, không báo trước Tổng Thống bổ nhiệm làm Tư Lệnh Vùng 1 đóng ở Đà Nẵng...
Đây là lần thứ tư đổi chỗ ở trong khoảng năm năm.” (sđd, tr. 201 & 202)
Tác giả đã ghi lại những diễn biến trong hai tháng cuối
cùng của nền Đệ Nhị Cộng Hòa mà bà là một chứng nhân. Qua người tùy viên, chúng
ta thấy được hình ảnh của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trong ngày cuối trước
khi mất Đà Nẵng:
Giờ
phút cuối ở Đà Nẵng, chỉ có anh và chú đi bộ ra bên bờ biển Sơn Trà lặng vắng,
mỗi người trên mình độc nhất chỉ một khẩu súng
(sđd, tr. 263). Theo lời người tùy viên kể
lại ngày cuối tại Đà Nẵng, anh và chú đã đứng tại chỗ này định kết thúc bằng
viên đạn.” (sđd, 252)
Đọc những trang sách nói về cuộc đời binh nghiệp của
Tướng Ngô Quang Trưởng, độc giả có thể dễ dàng nhận thấy tuy là tướng lãnh của
một vùng, nhưng Ông thể hiện tác phong quân kỷ rất nghiêm chỉnh:
“Anh
thức dậy sớm rất đúng giờ. Những cư dân trên con đường anh đến Bộ Tư Lệnh mỗi
ngày có tiếng đồn không cần xem đồng hồ, mỗi lần thấy xe Tư Lệnh chạy ngang là
biết đúng giờ đó anh di chuyển, không bao giờ có xe còi hụ, không người hộ vệ,
chỉ có một tùy viên. (sđd, tr. 263)
“Thời
gian ở Huế và Đà Nẵng, những ngày cuối tuần hay ngày lễ anh không bao giờ nghỉ.
Tôi và các con không có bữa ăn trưa cùng anh. Những bữa cơm tối anh thường về
muộn, các con ăn trước, ôn bài vở để đi ngủ sớm. Tuy sống cùng một nhà nhưng
chúng chỉ gặp chào anh trước khi đi ngủ.” (sđd, tr. 264)
Những hành xử của Ông trong việc thi hành lệnh quân đội
không vị tình riêng, không kết bè, vây cánh để tạo ảnh hưởng riêng:
“...
Từ Sài Gòn đổi ra Huế đảm nhận chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh chỉ có một người
tùy viên đi theo, ngoài ra không một người thân, ... Chuyện chỗ ở, phương tiện,
người giúp việc cho gia đình anh cũng để tùy văn phòng họ sắp xếp, tôi cũng
không đòi hỏi, không lựa chọn.” (sđd, tr. 266)
Ông luôn luôn sát cánh, chia sẻ với thuộc cấp trong từng
nhiệm vụ:
Mỗi
khi ra lệnh cấm trại anh luôn luôn cùng ở trong trại với các anh em.
(sđd, tr. 151)
Ông cũng không bao giờ lạm dụng chức vụ hay quyền thế
để làm ảnh hưởng đến công quỹ nhà nước:
Mùa
hạ khi ở Huế, tôi hay đưa các con ra bãi biển Thuận An. Trên đường xe chạy
ngang những khu vườn xanh tươi cây trái hoa quả ẩn hiện thấp thoáng những căn
nhà lợp ngói đỏ đã phai màu, không gian có vẻ thanh bình, các con thường mong
anh đi cùng. Chúng hay hỏi sao Ba không đi, anh chỉ trả lời một câu, “Ba bận
làm việc”. Tuổi thơ vô tư chúng không thắc mắc. Tôi biết nếu anh đi, phải có hộ
tống, phải lo sắp đặt an ninh. Chỉ một lần vui chốc lát mà bao người phải lo
như vậy, lạm dụng công sức của quân đội, một chuyện không thể có ở anh.
(sđd, tr. 268)
Và sống rất khiêm nhường, giản dị:
Anh
với chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 ở Huế, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ, Tư Lệnh
Quân Đoàn 1 ở Đà Nẵng, phương tiện di chuyển của tôi cũng chỉ là chiếc xe Jeep
cũ mang bảng số dân sự. Thời gian làm Tư Lệnh vùng Một ở Đà Nẵng, người Mỹ có
cho một xe du lịch Huê Kỳ màu đen khá rộng để gia đình sử dụng nhưng anh bảo
tôi nhường xe ấy cho gia đình Tư Lệnh phó... (sđd, tr. 267
& 268)
Điều
quan trọng nhất là Ông giữ gìn rất nghiêm mật đức tính thanh liêm, trong sạch của
mình. Còn nhớ “trong thập niên 1960 tại Miền Nam, trong dân gian đã truyền tụng
câu: ‘Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng’ nói lên lòng ngưỡng mộ của
người dân đối với bốn vị tướng lãnh này của QLVNCH”
(5).
“...
một điều quan trọng là không nhận quà biếu của bất cứ ai.”
(sđd, tr. 157)
“...
quan niệm sống của anh, anh dứt khoát không giúp một ai dù là người thân thích.
Anh nói người nào cũng có gia đình, cũng có bố mẹ, cũng có con cái, trong thời
chiến trận mình lo cho người thân về chỗ yên lành như vậy còn gì là kỷ luật và
còn ai bảo vệ quê hương. Anh đã bị họ hàng thân thích trách hờn.”
(sđd, tr. 297)
“Khi
còn ở VN, sau bữa cơm tối ra ngồi ngoài sân, anh phân tách những sự việc, những
thâm hiểm, những đòn phép của con người khó thể biết được mà vì vô tình hay vì
sự tham lam, mình sẽ bị cạm bẫy. Nếu mình phạm vào một lần sẽ có cớ để họ gây
khó dễ, họ ăn mười mình ăn một nhưng tiếng tăm mình lãnh hết và gây khó dễ cho
công việc anh làm.” (sđd, tr. 271)
Sau đây là một ví dụ:
“Anh
ăn giản dị không đòi hỏi nhưng tôi biết ý anh thích những món mặn theo cách chế
biến của miền Nam. Hai đứa nhỏ nhất thì thích nấu theo kiểu Huế, còn tôi vẫn
thích những món thanh nhẹ của miền Bắc... Tôi thường phụ với chú đầu bếp luôn
tiện dạy cho chú cách nấu những món của miền Nam và miền Bắc. Món thịt gà là
món mọi người ưa thích nhất, nhưng giá một con gà khoảng hơn một nghìn cho cả
nhà không đủ, mà mua hai con thì nhiều tiền quá. Tiền chợ mỗi ngày đã chỉ định
chỉ có một ngàn, vì vậy món thịt gà thường vắng bóng trong những bữa ăn. Tướng
Tư Lệnh một vùng mà thức ăn hàng ngày cũng phải tính toán vì còn phải để dành một
ít. Thời gian ở miền Tây thực phẩm rẻ và có nhiều lựa chọn, đặc biệt là hải sản
và rau củ trái cây, nhờ vậy thức ăn đầy đủ hơn. Tuy vậy, chú bếp cũng không
vui, than phiền. Chú nói người tư lệnh trước đưa tiền chợ nhiều gấp hai mà lại
ít người hơn, gạo ngon có người cung cấp, nước tương nước mắm họ biếu cả thùng,
v.v... và v.v... Với tiền chợ tôi đưa gồm cả gạo mắm muối, chú phải tính mua những
món ít tiền mới đủ mặc dù tôi nói chúng tôi không cần những thức ăn cầu kỳ đắt
tiền.” (sđd, tr. 265, 266)
Thêm một ví dụ khác:
“Qua
nhiều lần nói chuyện với Hòa, có những việc rất nhỏ làm tôi áy náy tự cảm thấy
như thiếu bổn phận làm vợ. Chú nói hai thầy trò thường nhịn đói không có bữa ăn
trưa. Bữa ăn sáng của anh là một bát cháo trắng với muối đường và một ly nước
trà nóng pha đậm. Tôi có nói để mua một tô bún bò hay phở mì, anh hỏi giá bao
nhiêu rồi nói mắc quá và mất công đi mua... Hàng ngày anh đến văn phòng rồi lên
trực thăng thăm các tiền đồn, chỗ đóng quân, có khi đáp xuống một vài nơi đúng
giờ ăn trưa họ mời nhưng không bao giờ anh ở lại ăn. Chú cho biết hôm nào Trung
Tướng ăn một hộp trái cây thì Hòa ăn một hộp thịt. Những món đồ hộp thường có để
một ít trên máy bay nhưng ít khi ăn vì vậy tùy viên cũng nhịn theo.”
(sđd, tr. 264)
Tướng lãnh của một vùng mà bữa điểm tâm chỉ là “một bát cháo trắng với muối đường và một ly
nước trà nóng pha đậm” thì đủ hiểu được con người chân chính, thanh liêm của
Ông đến bậc nào.
Bằng một văn phong nhẹ nhàng, trong sáng và chân thật
thừa hưởng từ Bố Thạch Lam, tác giả Nguyễn Tường Nhung đã chia sẻ về gia đình
mình sau khi Nhà văn Thạch Lam mất cũng như về Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, “một người chồng đầy tình cảm lãng mạn, một
người cha nhiều trách nhiệm, đã sống một cuộc đời khiêm nhường, khép kín nhưng
có lẽ thật bình yên, hạnh phúc khi trở thành một di dân tị nạn tại Hoa Kỳ...”
như lời giới thiệu của Nhà xuất bản Thạch Ngữ ở bìa sau sách. Hy vọng Tháng Ngày Qua sẽ góp thêm tài liệu cho
những bạn trẻ hoặc những nhà viết sử tương lai khi muốn tìm hiểu về hai gia
đình này hay thời kỳ chiến tranh Việt Pháp và chiến tranh Việt Nam. Cuốn sách
cũng có thể dựng thành phim ảnh vì nói đến xã hội và con người Việt Nam ở một
thời kỳ vô cùng nhiễu nhương. Có đầy đủ tình tiết của chết chóc, đau khổ lẫn
vui tươi, sum họp... Có những phân đoạn thương cảm khiến lệ tràn mi mà cũng có
những phân đoạn vui tươi với nụ cười hạnh phúc.
Trần Thị Nguyệt Mai
Tháng
1-2022
Nguồn:
https://www.voatiengviet.com/a/doc-hoi-uc-ba-qua-phu-ngo-quang-truong/6409975.html
(*) Tháng Ngày Qua – Hồi ức của Nguyễn Tường Nhung được
phát hành qua Nhà xuất bản Barnes and Noble.
Tham
khảo:
(1)
Mai Thảo – Phượng Hoàng Gẫy Cánh - Khởi Hành số 60 ngày 2-7-1970 - Trần Hoài
Thư sưu tập.
(2)
Mai Thảo – Tuần báo Nghệ Thuật số 35 – ngày 9-6-1966 – Trần Hoài Thư sưu tập.
(3)
Mai Thảo – Tuần báo Nghệ Thuật số 3 ngày 16-10-1965 – Trần Hoài Thư sưu tập.
(4)
Mặc Lâm – Tìm hiểu về nhóm Tự Lực Văn Đoàn
https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/AcknowledgeOfTuLucVanDoan_MLam-20070826.html
(5)
Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng
https://books9046.rssing.com/chan-61128279/all_p18.html
Mặc dù có nghe được cuốn hồi ký của bà quả phụ Ngô Quang Trưởng đã được phát hành ! nhưng chưa có dịp được sở hữu và đọc...! Cũng vì hiện tại ,cũng "già" và không có lợi tức nên cũng khó khăn ..!
Trả lờiXóaĐọc qua những trích dẫn ,từng đoạn sách ở trên ...Làm tôi xúc động và bồi hồi ,nói về một vị tướng là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng . Vị tướng ,mà thuộc cấp chúng tôi rất kính và cảm phục ...Tuy thế mặc dù bà quả phụ NQT có viết như thế nào ,nhưng vẫn còn chưa tả hết được những câu truyên bên ngoài,bằng anh em chúng tôi đã chứng kiến ngày một của ông ...Phải nhận xét ,ông là vị tướng "Quân Lệnh Như Sơn" và thương yêu ,lo lắng cho thuộc cấp .Ông là vị tướng không biết "mệt mỏi" với chinh chiến! Và cũng vì vậy thuộc cấp phía dưới ,cũng đồng lao công khổ với ông ...Sau trận Quảng Trị 1972 ,hầu như không có ngày đêm nào ông không hiện diện nơi vùng trời sông Thạch Hãn nơi phía bờ Bắc quân giặc chỉ chực chờ tấn công...Tr/u Thuận người lái trực thăng cho ông ,thường "than phiền" tàu đi triền miên ,không có thời gian để kiểm soát nhật tu ...Cũng có một đoạn ,tôi có đọc được như đã trích ở trên ,làm tôi nhớ lại là không nơi nào "mời" ông ăn được bữa cơm .Như những ông đầu tỉnh hoặc tư lệnh SĐ .Khi đến giờ dùng bữa những nơi ong đã ghé qua .Ông đến ! nhung chỉ nhìn qua bàn tiệc và hỏi với nhửng ông ấy : Cơm này làm ,lấy tiền dân hay lính ...Để đãi tôi đây ?.! Nói xong ,là ông kiếu từ đi lên trực thăng về ngay...Trong khi đó ! Ông đã từng đợi môt người lính Nghĩa Quân ,bên bờ sông Thạch Hãn nấu nồi cơm xong và cùng ngồi ăn chung với những binh sĩ đó ! Khi đang bay trên trực thăng .Ông móc gói mì tôm và bỏ vào miệng nhai...Ông là cấp tướng BB đầu tiên , có thể lái được trực thăng lúc bấy giờ ,ghế của Co Pilot là ông ngồi lái ..! Thật là cảm kích những lối cư xử của ông , và rất nhiều mẫu chuyện khác nữa về ông ...
Thật vui khi bạn ghé thăm và ghi cảm nhận. Chúc bạn và thân quyến luôn vui khỏe !
Trả lờiXóa