Chim
chích mà đậu cành tre
Thập
trên tứ dưới nhất đè chữ tâm
- Bên trái có bộ 彳
xích (ở đây có hình tượng con chim chích đậu trên cành tre) – Chích và Xích
cũng cùng âm.
- Bên phải
Trên cùng có chữ thập: 十
Dưới chữ 十
là chữ Tứ: 四
Dưới nữa là chữ Nhất: 一
Dưới cùng là chữ Tâm: 心
*
Chữ tứ 四(罒)là
chữ viết sai hoặc hình thức thư pháp của mục 目(罒) (mắt)
Bộ xích còn gọi là bộ chim chích (彳)mang hàm ý là bước chân trái.
Có thể đọc thêm câu thơ sau cho dễ nhớ:
Đức
(Xích) dù đi đâu, Mười phương (Thập), 4 hướng (Tứ), ta vẫn giữ nguyên một (nhất)
tấm lòng (tâm)
Cứ theo thứ tự của câu thơ mà viết từng phần của chữ Đức
sẽ thấy chữ Đức dễ viết vô cùng. Có thể gặp chữ Đức trong Tứ Đức của người phụ nữ:
Công, Dung, Ngôn, Hạnh (Người phụ nữ xưa phải có đủ Tam Tòng Tứ Đức, Tam Tòng là: Tại gia tòng Phụ, Xuất giá
tòng Phu, Phu tử tòng Tử)
CHỮ
ĐỨC
Đặc điểm của chữ ĐỨC 德
được tạo thành bởi năm bộ thủ:
1/ Bộ xích (彳):
có nghĩa là những bước chân chậm rãi, từ từ, thong thả, trường kì. Bộ xích
trong chữ đức có thể hiểu là muốn rèn “đức” hay bất kì một phẩm chất nào cũng vậy
cũng cần có thời gian rèn luyện, phải tích lũy từng chút từng chút, không phải
một bước mà thành.
2/ Bộ thập (十):
có nghĩa là mười.
(Thập) ngụ ý là nhiều, là đầy đủ, là thập toàn thập mỹ,
mười phân vẹn mười, cũng có ngụ ý là bốn phương tám hướng. Điều đó có nghĩa rằng,
con người dù ở đâu, lúc nào cũng phải dùng đức hạnh để đối đãi với người
khác.
Bộ thập xuất hiện trong chữ ĐỨC với ý nghĩa là dù ở
đâu, ở phương nào cũng cần dùng đạo đức, đức hạnh để đối xử với người khác.
3/ Bộ mục (目):
nghĩa là mắt
目 nằm ngang, ý nói
người có đức là người có con mắt tinh tường, có thể phân biệt thị phi, đúng
sai, thật giả.
4/ Bộ nhất (一):
có nghĩa là một,
一 mang ý nghĩa là
chỉnh thể, tổng thể, là toàn bộ, ý nói người có đức lấy đại sự làm trọng, không
tư lợi cho bản thân, vạn pháp quy nhất, một lòng một dạ, không tâm không tạp niệm,
không vướng bận.
5/ Bộ tâm (心):
có nghĩa là tâm.
心 là chỉ nội tâm,
muốn tu dưỡng được đức thì cần phải dựa vào tu dưỡng nội tâm. Tâm là bên trong,
là thật lòng, chân tình, trung thành. Tâm (心)
là bộ phận dưới cùng của chữ đức (德),
ý nói ĐỨC là trong đáy lòng không có vụ lợi, tư lợi.
Hiển nhiên rằng một người muốn tu dưỡng đạo đức thì phải
tu dưỡng nội tâm.
Chữ Đức 德 được tạo lên từ những phần như sau: Bên trái
là bộ xích 彳 Bên phải trên
cùng là chữ Thập 十
, dưới chữ thập là chữ Mục 目
, dưới chữ mục là Chữ nhất 一
, dưới cùng là chữ Tâm 心 tất cả kết hợp cấu thành chữ Đức 德
Qua chiết tự chữ Đức ta còn thấy được người có ĐỨC cao
thì vô vi không vội vàng, mà thuận theo tự nhiên. Người có đức cao thì thuận
theo tự nhiên không có ý cầu đức cho nên có đức, người có đức thấp thì luôn vội
vàng và có ý cầu đức cho nên không có đức.
Nếu phân tích sâu, chữ ĐỨC này có nghĩa như sau: ĐỨC
là thứ người ta tích được khi biết dùng mắt 目,
dùng tâm 心 lắng nghe thiên
ý, chữ nhất 一 trong tiếng Hoa cổ
đại có nghĩa là trời, nhất ở đây cũng có thể hiểu là hợp nhất với ý trời. Ý trời
là gì? Là khuyên con người hãy biết “kính thiên ái nhân” có nghĩa là kính trời,
yêu người. Làm việc lành, nói điều lành, nghĩ điều lành, thì đức sẽ tăng lên,
dùng được cho bản thân và đức này có thể tích lại cho con cháu thế hệ sau.
Nếu muốn phân
tích thành xích 彳,
thập 十, mục 目, nhất 一,
tâm 心 vẫn được. Dùng mắt, dùng
tâm lắng nghe và làm theo và hợp nhất với ý của thập phương thần thánh, thì sẽ
có ĐỨC.
Có thể nói chữ “ĐỨC” quyết định hết thảy mọi thứ của
con người, sâu cạn nhiều ít của đức hạnh quyết định phúc phận và vận mệnh của
con người. Cũng chính như “có đức mặc sức
mà ăn” mà cổ nhân thường nói đến...
Chúng ta cần rèn học chữ Đức ngay từ khi còn bé thơ và áp dụng mọi lúc mọi nơi. Đức không tự nhiên mà có mà phải tích theo năm tháng. Bởi thế tiếng Việt có từ TÍCH ĐỨC!
La Thụy sưu tầm
Luận bàn chữ Đức theo cách khác:
Trả lờiXóaChữ “đức” (德) là chữ Hán (thiên bàng) hợp thành từ các bộ “xích” (彳) , “thập” (十); “mục” (目); “nhất” (一); “tâm” (心) tổ hợp thành. Trong cuốn “Thuyết văn giải tự” giải thích: “Đức, thăng dã. Tùng xích thanh”, tạm dịch là: “Đức, cảnh giới nhờ việc làm tốt mà thăng hoa”.
Hình chữ chọn dùng “彳” làm biên bàng, “㥁” làm thanh bàng. Vì vậy, “đức” có thể lý giải là đạo đức của con người, “tâm tính” (心性) của con người thăng hoa lên trên. Bởi “đức” có ý nghĩa vươn lên tầng thứ cao, cũng là chỉ tinh tấn trong tu luyện của người tu luyện. “Xích” 彳, ý là đi thong thả. Theo “Thuyết văn giải tự”, “Xích” (彳) giống như 3 khớp xương đùi, bắp chân, bàn chân của chân dưới của con người liên kết lại với nhau, ý là đi từng bước nhỏ.
Nhưng bước đi thong thả trong chữ “đức” (德) này, không phải là chạy, không phải nhảy, không phải đang tản bộ trên đất bằng, cũng không phải đang dậm chân tại chỗ, mà là từng bước một có in dấu chân đi lên trên, hướng lên trên. Đối với một người bình thường mà nói, sự ít nhiều của “đức” quyết định năng lực lớn nhỏ, mức độ của hạnh phúc, hướng đi và tầng thứ của luân hồi.
Vậy nên, muốn “được” thì phải có “đức”, muốn “được” thì phải “mất”, muốn “được” thì phải “xả”, muốn “được” thì phải cho đi. Đối với người tu luyện mà nói, sự ít nhiều của “đức” đã quyết định mức độ khó dễ trong tu luyện của người tu luyện, tầng thứ và quả vị có thể đạt được.
Phía bên phải của “đức” là “thập mục nhất tâm” (十目一心). Chúng ta trước hết nói về chữ “nhất” (一) trong này. Chúng ta hiện nay đều lý giải chữ “nhất” là chữ số 1, cho rằng chữ nhất chính là đơn giản nhất. Trên thực tế chữ số này là phức tạp nhất. Trong “Thuyết văn giải tự” giải thích đối với chữ này là nhiều nhất. Vậy “nhất” (一) ở trong đó được đàm như thế nào?
“Duy sơ thái cực, đạo lập ô nhất, tạo phân thiên địa, hóa thành vạn vật”, (tạm dịch là: Thái cực, Đạo tối nguyên sơ là được sinh ta từ “nhất”, sau đó tạo nên trời đất, sinh thành vạn vật). Vậy nên chữ “nhất” này nó là thủy tổ của vạn vật, là thủy tổ và bản nguyên của hết thảy mọi thứ. Từ “nhất” sinh ra âm dương, tạo ra trời đất. Vậy nên một nét ngang này thực tế chính là tách biệt trời đất, bên trên là trời, bên dưới là đất, còn “thập” (số 10) chính là “thế giới mười phương, bốn mặt tám phương”.
Vậy nên mọi người sẽ thấy chữ “đức” này rất có ý nghĩa, “thập mục” (十目) bên trên chữ “nhất” (一) chính là ý nói khắp trời đều là những con mắt. Chữ “tâm” (心) bên dưới chữ “nhất” đương nhiên chính là chỉ nhân tâm, vậy nên con mắt của khắp trời đều đang nhìn vào cái tâm của con người.
Quá khứ có một câu nói “trên đầu ba thước có Thần linh”, “làm chuyện trái với lương tâm ở trong phòng tối, mắt Thần lại thấy rõ như ánh điện”. Chính là nói khắp nơi đều là con mắt của trời, con mắt khắp trời đều đang nhìn xuống mặt đất này. Từ đây có thể thấy người xưa cho rằng cái gì là “đức”? Chính là không kể có người đang dõi nhìn bạn hay không, có pháp luật truy cứu bạn hay không, hành vi của bạn nếu phù hợp với đạo trời, thì mới là “đức” thật sự.
Lão Tử nói: “Vạn vật mạc bất tôn Đạo nhi quý Đức”, ý là muôn vật đều tôn trọng Đạo và quý trọng Đức; muôn vật nếu không có Đạo thì không thể sinh, không có Đức thì không thể thành được. Vạn vật trong cõi trời đất sở dĩ có thể sinh tồn và phát triển, đều là bắt nguồn từ sự dưỡng dục của đạo đức. Đức là một loại vật chất cao năng lượng nhìn không thấy, sờ không được nhưng lại thật sự tồn tại.
https://tinhhoa.net/mot-chu-duc-khong-ngo-lai-an-chua-thien-co-to-lon-nhu-vay.html
Bộ xích 彳 (+0 nét)
Trả lờiXóaTừ điển phổ thông
1. (Danh) Bước ngắn. § Bước chân trái gọi là “xích” 彳, bước chân phải gọi là “xúc” 亍, hợp lại thành chữ “hành” 行. ◎Như: “xích xúc” 彳亍 bước đi chậm rãi.
2. § Ghi chú: Có khi đọc là “sách”.
*
Từ điển Trần Văn Chánh
① Bước ngắn;
② Bước chân trái. Đi tản bộ, đủng đa đủng đỉnh:
③ Kí hiệu chú âm của chữ Hán, tương đương với âm ch.
*
Bộ xích còn gọi là bộ chim chích (彳)mang hàm ý là bước chân trái.
XÍCH彳: là Bước Chân Trái. Cũng có nghĩa là Bước Chậm rãi. XÍCH vừa là Bộ vừa là Chữ. Khi là Bộ, thường đứng bên trái và được gọi là "Song Nhân Bàng 雙人旁". Có nghĩa là Bộ gồm có 2 chữ Nhân 人 chồng lên nhau 彳. Những chữ được ghép bởi Bộ XÍCH thường chỉ về Đi Đứng, Đường xá, Hành vi của con người.
Trả lờiXóaTa còn có một biến dạng của bộ XÍCH là chữ SÁCH 亍 (còn đọc là XÚC) là Bước chân phải, nên XÍCH SÁCH 彳亍 : Bước chân trái một cái, bước chân phải một cái là đi Tản bộ, là đi Bách bộ, đi chầm chậm, như trong bai câu thơ của Lý Chí đời Minh :
踟蹰横渡口, Trì trù hoành độ khẩu,
彳亍上灘舟。 XÍCH SÁCH thướng than chu.
Có nghĩa:
Chần chừ trước bến đò ngang,
NGẦN NGỪ bước xuống thuyền sang bến bờ.
Một cách chiết tự khác về chữ ĐỨC theo học giả Đỗ Chiêu Đức và anh bạn đồng môn Tam Ngng:
Trả lờiXóa"Một hình thức khác nữa của chữ Đức 德 là Đức 惪 (hay 悳 Đức) nầy đây. Bỏ hẵn bộ XÍCH 彳bên trái, và bộ Mục 目 được viết thẳng đứng hẵn hoi, hợp với chữ Thập 十 thành chữ TRỰC 直 là Ngay thẳng. Chiết tự chữ ĐỨC 惪 nầy gồm có TRỰC 直 trên, TÂM 心 dưới. Có nghĩa: Một tấm lòng ngay thẳng ! Vâng, MỘT TẤM LÒNG NGAY THẲNG đã là ĐỨC rồi!"