CUỐN SÁCH ĐẦU TIÊN - Nguyễn Đức Tùng
Cuốn sách đầu tiên mà tôi đọc khi ở ngoài đất nước là
một món quà. Tôi hoàn toàn không biết người gửi. Tôi tìm thấy nó dưới tấm thảm
cũ góc nhà trong khu tạm giam gần thủ đô Bangkok. Tôi thức dậy trước khi trời
sáng, không ngủ được, bồn chồn, cảm giác có vật cộm lên dưới gót chân. Đó là cuốn
sách rách bìa nhưng bên trong còn tốt, giấy ố vàng nhưng chữ đọc được. Cuốn
sách không nằm đó một mình, không nằm đó một cách cô độc, nó nằm chờ ở đó như
người bạn chờ người bạn. Cuốn sách như tác phẩm nghệ thuật được một nghệ sĩ để
lại trên đường đi, vì quá nặng, hay cố tình để lại cho người đến sau. Cuốn sách
ấy như một nhân vật, không yêu ai, không phụ ai, không chú ý đến người nào, nằm
im lặng ở đó nhưng đã học quá nhiều điều từ những năm tháng tối tăm, biết bao
người đi qua, dừng lại, nằm xuống, nằm xuống mãi, không ai nhìn thấy vì nó nằm ở
chỗ lõm sâu nhất của sàn xi măng lạnh lẽo. Cuốn sách không được phê bình, không
được mang tới, kiên nhẫn như tác phẩm vĩ đại, như kho tàng chôn giấu kỹ, là vật
duy nhất còn sống sót dưới đống gạch đá của ngôi nhà tan nát vì chiến tranh. Nó
ở đó, lưu giữ ký ức của loài người, sự sinh thành các tính cách, tham lam và
ích kỷ, cao thượng và hy sinh, dằng dặc nỗi buồn của tình yêu của ba người đàn
ông.
Đó là Anh em nhà
Karamazov, trong cuốn The Brothers
Karamazov, bản dịch tiếng Anh khoảng năm 1960. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của
nhà văn Nga Fyodor Dostoevsky, được viết những năm cuối của đời ông. Trước đó
tôi chưa đọc cuốn này, cả trong tiếng Việt, mặc dù có nghe nói đến bản dịch, nhưng
tôi có đọc Tội ác và Trừng phạt, đọc
loáng thoáng, ba lơn, không thích vì không hiểu, tối tăm so lối văn trong sáng
mà tôi vẫn yêu thích thời ấy. Nhưng tôi không có chọn lựa nào khác. Không có từ
điển trong tay, tôi quyết định đọc nó, khổ sở, hoang mang, tức giận. Đọc chậm,
từng chữ, đánh vần, rồi đọc lại cả mệnh đề rồi cả câu, vừa đọc vừa đoán, vừa đọc
vừa tưởng tượng, cũng có nhiều chữ gần với tiếng Pháp, sinh ngữ của tôi, nên
tôi suy ra được. Tôi đoán nghĩa của chúng dựa vào liên tưởng, lờ mờ hình dung
các nhân vật, lời nói cử chỉ của họ, các tranh luận dài dằng dặc của họ. Tính
chất cực đoan của tác giả, những cuộc đối thoại vừa gay go vừa ly kỳ bắt đầu
quyến rũ tôi, sự nhạy cảm của nhà văn, sự xung đột của các tính cách, nỗi khổ
đau của họ, tình yêu của họ. Thực sự là một tiểu thuyết lớn có tính triết học với
những câu hỏi về các giá trị, sức mạnh của lòng tin, và sức mạnh của sự nghi ngờ,
tranh cãi. Sự thách thức và sự bảo vệ tự do. Các cuộc chiến tranh bắt buộc và
các cuộc chiến tranh có thể tránh được.
Một dân tộc không có tranh luận, tranh cãi, tìm đường,
là một dân tộc không thể lớn lên. Tôi đồng ý với nhà văn Nga rằng thực ra ma quỷ
không có, chỉ là do con người tạo ra chúng dựa trên khuôn mẫu của chính mình.
Tôi đọc đi đọc lại cuốn sách hai lần, ba lần rồi năm lần, bảy lần, không chỉ vì
yêu thích mà vì không có việc gì làm trong những ngày mưa rả rích, rét run người,
nằm một mình trên tầng lầu thứ tư trong một tòa nhà đá dùng giam giữ những người
nước ngoài phạm tội, như nhập cư lậu, kẻ sắp ra tòa, những người vượt biên bị bắt
lại, chờ hồi hương, một thế giới vô cùng hỗn tạp, đủ hạng người, da trắng có,
người da màu có, nhưng tầng lầu tôi ở trong hai tháng lại khá vắng, không hiểu
vì sao. Cũng vì tôi đọc mà không hiểu, nhưng mỗi lần đọc xong lại hiểu lên một
bậc, càng hiểu càng thích, càng tò mò. Hầu hết các chữ tôi đọc được là do đoán
mò, do liên tưởng, nên có lúc sai be bét. Nhân vật Alyosha có câu nói mà tôi thích, I send him my compliments, tôi cứ tưởng rằng đó là lời cảm ơn trang
nhã, vì vậy khi gặp phái đoàn Tân Tây Lan đến làm việc, tôi đã dùng câu ấy để gửi
tới thủ tướng của họ. Cầu trời cho ông ấy không bao giờ nhận được. Nhưng nhờ kiểu
học máy móc, ẩu tả, tôi thuộc được rất nhiều mệnh đề trong tiểu thuyết, cách
nói, sự kết hợp duyên dáng của các chữ, cách suy nghĩ trừu tượng của các nhân vật.
Tôi thuộc tính cách của người cha Fyodor,
một kẻ lạnh lùng không biết yêu thương, nhưng mối quan hệ phức tạp của ông ta
và các con trai tạo ra những xung lượng lớn
cho tiểu thuyết, tôi biết Dmitri,
người con trai lớn, một người có nhiều cảm xúc, mối tình của chàng ta với kiều
nữ Grushenka, hai cha con cùng yêu một
người đàn bà, và cuộc đấu tranh quanh gia tài, tôi yêu chàng Alyosha thánh thiện, đáng mến, đầy lòng
tin, biểu tượng của lòng hy vọng đối với con người, nhưng tôi quan tâm nhiều
hơn đến Ivan, đứa con trai giữa, một
kẻ cô độc, trí tuệ, đau khổ vì sự tàn ác của con người, một kẻ không tin vào
Thượng đế, suốt đời theo đuổi tình yêu ngang trái của chàng. Trong tay không có
từ điển, sự hiểu biết của tôi đối với cuốn sách về chi tiết và các đối thoại mười
phần sai hết sáu, bảy, thế nhưng kỳ lạ thay ba hay bốn phần còn lại ấy lại dẫn
dắt toàn bộ cảm thức của tôi, tôi biết rằng thế giới mà tôi đang sống đầy rẫy
những điều xấu xa và tốt đẹp, rằng những mối quan hệ cha mẹ và con cái, anh chị
em, bè bạn, con người và quê hương không bao giờ đơn giản như ta nghĩ. Thực ra,
nếu muốn đẩy chúng đến mức đơn giản thì chúng cũng có thể đơn giản nhưng sự đơn
giản ấy không có ích cho con người, không giải quyết được những vấn đề của đời
sống, những xung đột ngấm ngầm sẽ bị hoàn cảnh khó khăn về sau làm bộc lộ. Những
hiểu biết như thế làm tôi buồn rầu kinh khủng, chán nản, sợ hãi trước con người.
Cuốn sách cũng dạy tôi rằng tự do là một cảm nhận rất sâu xa, không phải ai
cũng có, không phải xã hội nào cũng có, nó phân biệt kẻ cao quý và kẻ thấp hèn,
vì không có gì đáng ghét hơn là một người đòi hỏi tự do trong mắt những kẻ có
quyền hành và cả trong mắt một xã hội đã quen sống nô lệ.
Mặc dù có nhiều tình tiết, hành động, các tranh luận nặng
tính triết lý, căn bản của cuốn tiểu thuyết là những xúc cảm. Sự mô tả các mối
quan hệ nhiều lúc vượt ra khỏi những kinh nghiệm cá nhân của tôi, và như một
người đọc, tôi trẻ hơn, kém trưởng thành hơn so với các nhân vật. Vì việc đọc xảy
ra trong bối cảnh đặc biệt, mọi tâm trí của tôi dành gần như hoàn toàn cho câu
chuyện kể, cảm xúc của tôi là những phản ứng đối với các diễn tiến, khi tôi lắng
nghe các giọng điệu, tự mình thu xếp suy nghĩ riêng, việc đọc ấy làm tôi trở
thành người tham gia vào mọi thứ. Nói cách khác mối quan hệ của tôi với cuốn
sách là mối quan hệ hai chiều, tác động qua lại. Trước Anh em nhà Karamazov, tôi đã từng yêu mến nhiều thứ: Nửa chừng xuân, Mối tình màu hoa đào, Giông
tố, Cõi người ta, Khung cửa hẹp, Zorba, nhưng những cuốn sách ấy tôi đọc
chúng trong khung cảnh thơ mộng, tin rằng thế giới lúc nào cũng thế, không thay
đổi, còn bây giờ tôi đọc trong tâm trạng lo âu, rối bời, nhớ, nên những ấn tượng
của các nhân vật sâu đậm không ngờ, chúng làm tôi kiệt sức và nâng tôi lên.
Trong bất kỳ một tự sự nào cũng có niềm hy vọng, về sự giao tiếp giữa tác giả
và người đọc, sự giao tiếp ấy bất chấp những cách trở không gian và thời gian,
làm bạn vững lòng như khi gặp tai nạn, bạn thấy mình đứng giữa những người
khác, trách nhiệm và xao xuyến. Cuốn sách làm cho tôi từ một đứa con trai vui
tươi hời hợt trở thành đăm chiêu buồn bã, nhưng cũng vào lúc ấy nó mang lại cho
tôi cảm giác sống động về thế gian, lòng hy vọng. Càng hiểu những hoài bão thầm
kín tôi càng tin rằng người khác cũng như mình, cũng không thỏa mãn với những
điều kiện, cũng từ chối quá khứ, cũng căm hận những nhầm lẫn của lịch sử, sự lừa
dối của văn học, nổi giận trước tội ác chống con người. Trong sách, Dostoevsky có một câu mà tôi nhớ: Bí ẩn thiêng liêng của đời sống không phải
là bạn tìm cách để sống mà ở trong sự tìm kiếm mục đích của đời sống ấy. The
mystery of human existence lies not in just staying alive, but in finding
something to live for. Chìm sâu vào cuốn sách, tôi tìm thấy sự kích thích của
các vấn nạn, như khi lặn xuống đáy nước sâu, càng lặn xuống, sức đẩy của nước
càng lớn, nó hất tôi lên mặt nước, cho tôi gặp khí trời, xô tôi vào giữa những
quan hệ hỗn loạn, dịu dàng. Tôi không tha thiết lắm với những câu hỏi về Thượng
đế, chúng xa lạ với tôi, ngày ấy tôi không hiểu được Thượng đế là vũ trụ, nhưng
tôi quan tâm nhiều hơn đến những suy nghĩ về trần tục, những điển lễ của tha thứ,
nỗi đam mê chết người của tình yêu, tội lỗi của chúng, sự cứu rỗi của chúng.
Càng về sau tôi càng nhận ra khuôn mặt của xã hội Việt Nam trong cuốn sách ấy,
một xã hội hậu chiến ngày càng phát triển hỗn loạn, bộc lộ hết những mâu thuẫn
và tham vọng điên cuồng, sự đau khổ của đồng bào tôi và ước vọng muôn đời của họ,
sự lừa dối của các khẩu hiệu và sự cứu rỗi của ngôn ngữ.
Nhà văn Nga viết cuốn sách này khi đã lớn tuổi, rơi
vào tình trạng bệnh tật liên miên, sống trong một cuộc đời buồn nhiều hơn vui,
trong một hoàn cảnh xã hội đen tối, viết suốt mấy năm ròng rã trước khi ông qua
đời, không có một chút hy vọng nào về sự nổi tiếng của nó, nhưng cuốn tiểu thuyết
sau cùng ấy có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất của ông và là một trong những tác
phẩm quan trọng nhất của nhân loại. Hai cuốn Bác sĩ Zhivago của Boris Pasternak và Anh em nhà Karamarov của Fyodor Dostoevsky đã ảnh hưởng đến tôi nhiều
nhất, cuốn thứ nhất tôi đọc bản tiếng Việt và nhiều năm sau đọc lại trong tiếng
Anh, cả hai lần tôi ít khi phải dùng từ điển, nhưng cuốn thứ hai hoàn toàn cần
đến từ điển thì tôi không có, đầy những chi tiết đan quyện các đối thoại và
hành vi lạ thường, lừng lẫy, buồn bã, khích động, đó là một thế giới của những
tính cách mạnh mẽ, những con người hiền minh và tội lỗi, sự mất đối xứng của
các nguyên tắc, sự hài hước, quyến rũ của cái đẹp, cái chết. Khi đọc đến chương
cuối, tôi gặp dòng chữ viết tay bằng bút mực xanh, chữ viết gấp khó đọc nhưng đẹp,
sắc, mạnh mẽ, ghi tên một người nào đó, không biết là người chủ cuốn sách hay
ai khác. Tôi tin đó là món quà tặng mà một người từ xa bí mật gởi đến cho tôi.
Từ một thế giới khác. Đó cũng là một cuốn sách viết về thế giới khác, thế kỷ
khác, những con người hoàn toàn xa lạ, tất cả đều xa lạ với tôi, thế nhưng càng
hiểu nó tôi càng tin rằng đó chính là cuộc đời này, của tôi đây, một cuộc đời
đau đớn và quyến rũ, như chính cuộc ra đi của chúng tôi ngày ấy.
Có những nhà văn viết về thế giới như thể chúng là, mô
tả chúng, trình bày chúng một cách sang trọng đẹp đẽ, một cách tài tình, làm
người đọc ngẩn ngơ như Marcel Proust,
và có những nhà văn xới tung thế giới, làm đảo lộn các trật tự, khơi mở thứ ánh
sáng mới, lạ lẫm, tươi rói, chưa hoàn thiện, như Dostoevsky. Tôi mừng rằng tôi đã đọc cuốn sách ấy khi còn trẻ, nếu
tôi đọc nó khi đã lớn tuổi, mặc dù với sự hiểu biết khá hơn, tôi đã không có những
ấn tượng ban đầu. Hệt như vậy, tôi đã được đọc Gió đầu mùa của Thạch Lam năm mười tuổi, Thằng người gỗ Pinocchio năm mười một tuổi, Bay đêm năm mười ba tuổi, vì thế những cuốn sách ấy đã được gieo xuống
đúng vào quãng đời cần thiết, nếu như tôi đọc chúng mười năm sau, ý nghĩa đã
khác hẳn, cũng như vậy buổi tình đầu của bạn, cuộc ra đi của bạn, cái chết của
một người thân năm bạn lên mười tuổi, tình bạn năm mười sáu, đúng vào thời điểm
ấy hoàn toàn khác khi chúng xảy ra những năm trước đó hay sau đó, cũng vậy bạn
đọc một cuốn sách trên bãi biển mùa hè hay trong căn bếp nóng hừng hực của nhà
hàng khi bạn làm nghề rửa chén, đọc nó trên cánh võng dưới giàn hoa thiên lý
hay trong trại giam ngoài đất nước, chúng hoàn toàn khác nhau, đem lại những hiệu
ứng khác nhau cho cuộc đời. Cuốn sách dưới lớp vải bố dày, nửa như nệm, nửa như
chiếu, trên sàn đá lạnh những chiều mưa ẩm ướt, khơi mở trong tôi biết bao bí ẩn
mà tôi chưa gặp, nhưng thế nào tôi cũng sẽ gặp khi lớn lên, giữa một thế giới đầy
người ác và người thiện, người thiện và người ác, mất rồi lại được, được rồi mất,
gặp rồi chia tay, chia tay rồi gặp lại.
Nguyễn Đức Tùng
(Hai
trăm năm sinh Fyodor Dostoevsky, Nov. 1821- Nov. 2021)
Trả lờiXóaNghe tin Buồn bác BK đưa
Nên bớt chút thời gian sang đây Chia buồn cùng Bác ...
Thân chúc bác BK luôn BÌNH AN và nhớ giũ sức khỏe trong khi Dịch vẫn còn nhiều nơi Phan Thiết ...
QUA THĂM BÂNG KHUÂNG .. ĐỌC BÀI VIẾT HƠI DÀI .. NHƯNG Ý NGHĨA LẮM .. XIN CHÚC MỪNG .. LUÔN BÌNH AN – VUII KHOẺ NHÉ
Trả lờiXóahttps://1.bp.blogspot.com/-zMia-kH3n60/X_SvPpNYAXI/AAAAAAAABYo/rDZensb4fG8hXt5kcjDAiNR-QaArkeimgCLcBGAsYHQ/s320/M%25C6%25AFA-peste%2Btrandafiri.gif