I
- Sơ lược về nhà thơ Vũ Hoàng Chương:
Vũ Hoàng Chương (1916-1978) ở Nam Ðịnh, nguyên quán ông
là làng Phù Ủng, huyện Đường Hào nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên.
Thi phẩm của Vũ Hoàng Chương được nổi tiếng nhất là tập
Thơ Say (xuất-bản năm 1940). Sau tháng Tám 1945, nhà thơ họ Vũ đã cho ra đời
thêm mấy tập thơ nữa là: Mây (1943), Rừng Phong (1954); một tập kịch thơ Vân Muội,
Trương Chi, Hồng Diệp (1944).
Sau năm 1954, nhà thơ di cư vào Nam, ông tiếp tục sáng
tác không ngừng cho đến khi ông mất. Các tác phẩm giai đoạn này là các tập thơ
Tâm Sự Kẻ Sang Tần (1961), Lửa Từ Bi (1963), Ta Đợi Em Từ 30 Năm (1970), Chúng
Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau (1973)... Ông từng được vinh danh là "Thi bá"
Việt Nam.
Sau 1975 bị bắt giam ở Chí Hòa, do bệnh nặng Ông mất ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Sài Gòn.
II
– Sự Kiện của thơ:
Nhà thơ La Thuỵ, quản nhiệm trang web blog BÂNG KHUÂNG
(phudoanlagi.blogspot.com) và trang web blog NỖI NIỀM (lathuybinhthuan.blogspot.com)
đăng trên 2 trang web blog của mình như sau:
“Di
cảo của Vũ Hoàng Chương (1975 – 1976), do Vũ Hoàng Chương trao cho Hoàng Hương
Trang giữ trước khi qua đời, đây là công bố đầu tiên di cảo này, gồm 14 bài,
trong đó có 1 bài thơ Tết vịnh Tranh Gà Lợn, 12 bài cùng 1 nhan đề ‘Đọc lại người
xưa’, còn 1 bài ông làm trong tù gồm 12 câu, phải làm 6 lần, mỗi lần bà Đinh Thục
Oanh vợ ông vào thăm nuôi, ông chỉ viết 2 câu trên mảnh giấy gói đồ, 6 lần vào
thăm nuôi ghép lại mới hoàn chỉnh bài thơ, tuy nhiên bài ấy do bà Đinh Thục
Oanh giữ và nay đã thất lạc, Hoàng Hương Trang chỉ nhớ vỏn vẹn 1 câu: ‘Tối về
Khánh Hội sáng vô Chí Hòa’ để chỉ những cuộc thăm nuôi của bà Đinh Thục Oanh
vào thăm ở Chí Hòa, lặn lội cuốc bộ về tới Khánh Hội ở đậu nhà bà Đinh Hùng thì
trời đã chiều tối. Nhưng bài thơ này cũng là ngoài 12 bài liền mạch ‘Đọc lại
người xưa’.
‘Hoàng
Hương Trang nay cũng ở gần cái tuổi 80 rồi, sợ không giữ được, nên xin công bố,
in vào tuyển tập sau này để lưu giữ được lâu dài, làm tài liệu cho văn học sau
này.
Năm 2012, La Thụy được chị Hoàng Hương Trang tặng TUYỂN TẬP THƠ VĂN XUÔI HOÀNG HƯƠNG TRANG, trong đó có in những bài thơ cuối cùng, là ‘di cảo do thi sĩ Vũ Hoàng Chương trao cho chị Hoàng Hương Trang giữ trước khi qua đời’. Những bài thơ này được in từ trang 398 đến trang 407 trong tuyển tập nêu trên. Xin giới thiệu cùng quý bạn đọc.”
III- Nghiên cứu bài thơ “Đọc Lại Người Xưa, Bài 1”
“Minh nhật dục từ nam phố đạo
Hà nhân cánh xướng bắc cung thanh”
Cao Bá Quát
*
Đường Thanh Nghệ Tĩnh chon von
Nhịp ba cung bắc ai còn hát đây
Cánh chim lượn gió đong đầy
Khói hoàng đô thoắt liền mây Đế Thành
Rồng Lê phượng Nguyễn tung hoành
Chẳng e lưu xú chẳng đành lưu phương
Ba hồi trống giục pháp trường
Máu tuôn phách dựng phố phường còn mưa
Cơn buồn lọt gió mành thưa
Mấy mươi giông bão cho vừa nhịp ba
Nào ai đáng mặt danh ca
Mời ai danh sĩ Bắc hà về nghe.
Vũ Hoàng Chương
BÀN
VỀ “ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA, BÀI 1”; THƠ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Châu Thạch
Bài thơ nầy Vũ Hoàng Chương viết về Cao Bá Quát:
Cao Bá Quát (1809 – 1855), biểu tự Chu Thần, hiệu Mẫn
Hiên, lại có hiệu Cúc Đường, là quân sư trong cuộc nổi dậy Mỹ Lương chống lại
triều Nguyễn, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học
Việt Nam.
Ông là người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc
Ninh; nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Cuối đời Cao Bá Quát làm thủ
lĩnh của cuộc khởi nghĩa lớn chống triều Nguyễn. Khởi nghĩa thất bại, cái chết
của ông có nhiều giả thuyết, giả thuyết Cao Bá Quát bị chém được kể lại thành
giai thoại văn chương.
Trước khi nhập đề “Đọc Lại Người Xưa” (1), nhà thơ Vũ
Hoàng Chương đã dùng hai câu thơ của Cao Bá Quát để dẫn nhập cho bài thơ của
mình. Nguồn gốc của hai câu thơ nầy được nhà thơ La Thụy giải thích như sau:
Hà nhân cánh xướng bắc cung thanh.
(Cao Bá Quát)
Hai câu thơ đó có nghĩa là:
Ai lại còn đàn hát giọng Bắc hôm nay.”
“Bài thơ này nằm trong quyển ‘Cao Chu Thần thi tập’ của Trung Tâm Học Liệu xuất bản năm 1971
Cổ nhân bất thức kim nhân hận,
Tài đáo thương ly thuyết tận tình.
Minh nhật dục từ nam phố đạo,
Hà nhân cánh xướng bắc cung thanh.
Hàn y cô quán băng xương thiểu,
Vụ hiệp thâm thôn trúc thụ bình.
Túy sát Tầm Dương tiếu Tư Mã,
Thanh sam hà sự lệ tung hoành
Cao Bá Quát
Dịch nghĩa:
Mới gặp sự đau lòng biệt ly (hơi hơi), cũng đã nói hết sầu tình.
Ngày mai muốn xa cách đường Nam phố,
Ai lại còn đàn hát giọng Bắc hôm nay.
Sương giá không bao, quán trọ vẫn quạnh hiu lạnh lẽo,
Cây cối đều bằng phẳng, vì mù trùm làng mạc thâm u.
Nực cười cho bến Tầm Dương, chàng Tư Mã kia say,
Việc gì mà đến nỗi lai láng dòng lệ, thấm tràn áo xanh.
Dịch thơ:
Người xưa không biết người nay hận,
Vừa mới xa nhau đã hết tình.
Mai sẽ từ biệt đường Nam phố,
Mà ai lại ca giọng Bắc thanh?
Lạnh lùng quán quạnh dầu sương ít,
Bằng phẳng cây nhiều với vụ sanh.
Cười ngất rượu say Tư Mã khách,
Can gì lệ đẫm khắp bào xanh!
Sa Minh Tạ Thúc Khải
Đọc hai câu dẫn nhập vào bài thơ “Đọc Lại Người Xưa (1)” của Vũ Hoàng Chương, ta cũng có thể hiểu
nhà thơ Vũ Hoàng Chương muốn dùng hai câu thơ của Cao Bá Quát để nói lên tâm sự
u uẩn của người xưa mà cũng gởi vào đó tâm sự u uẩn của chính mình ngày nay.
Hai câu thơ dẫn nhập cho “Đọc Lại Người Xưa 1” là “Minh
nhật dục từ nam phố đạo/Hà nhân cánh xướng bắc cung thanh” dịch là “Mai sẽ từ biệt đường Nam phố/Mà ai lại ca
giọng Bắc thanh?” cho ta đoán định được tâm sự lưu luyến khi phải từ bỏ một
quá khứ, một quê hương để bước vào một cuộc sống mới, xa lìa nguồn vui thanh
nhã đàn ca hát xướng, cũng như nỗi buồn khi phút cuối còn nghe giọng ca quen
thuộc như một lời tiển đưa ai oán.
Thế rồi Vũ Hoàng Chương vào đề bài thơ bằng câu thơ: “Đường Thanh Nghệ Tĩnh cho von”. Đọc câu
thơ nầy ta nhớ đến bài thơ “Qua đèo
Ngang” của bà Huyện Thanh Quan. Bà Huyện Thanh Quan cũng đi trên con đường
Thanh Nghệ Tĩnh để vào kinh đô Huế, đên đèo Ngang, bà cảm tác bài “Qua Đèo Ngang” bày tỏ tấm lòng thương
nhớ triều Lê.
Ở bài thơ nầy, Vũ Hoàng Chương cũng nhắc đến “Đường Thanh Nghệ Tĩnh cho von”, nhưng
trong một câu thơ sau nhà thơ lại nhắc đến cái chết bị chém đầu trên pháp trường
cúa Cao Bá Quát: “Ba hồi trống giục pháp
trường/Máu tuôn phách dựng phố phường còn mưa”. Điều đó chứng tỏ câu thơ “Đường Thanh Nghệ Tĩnh chon von” Vũ
Hoàng Chương muốn nói đên việc Cao Bá Quát qua Thanh Nghệ Tĩnh hay qua đèo
Ngang, trên con đường bị đưa vào kinh đô Huế để chém đầu.
Câu thơ thứ hai của “Đọc Lại Người Xưa (1)”, Vũ Hoàng Chương nhắc đến ca trù hay hát
nói: “Nhịp ba cung bắc ai còn hát đây”
Hát nói vừa là một thể thơ, vừa là một trong 46 điệu
thức của loại hình nghệ thuật dân gian ca trù. Nửa đầu hay tiền bán thế kỷ 19,
hai nhà thơ cùng nổi danh với những bài Hát nói trong giáo phường cũng như
trong lòng kẻ thưởng ngoạn, và thường được xếp bên nhau trong chương trình giáo
khoa văn học VN là Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát.
Qua những bài hát nói, Cao Bá Quát tỏ ra là một tài tử
đa cùng, một nghệ sĩ tài hoa, một khách phong lưu ưa thú cầm kỳ thi tửu và
thích hưởng nhàn và hưởng lạc.
“Nhịp
ba cung bắc” là gì? Đó là một cách hát trong nghệ thuật
hát nói.
Câu thơ “Nhịp ba
cung bắc ai còn hát đây” Vũ Hoàng Chương muốn nói đến Cao Bá Quát, tác giả “Tài tử đa cùng phú” đã bị dưa đi chém đầu
rồi thì từ đây, điệu ca hay “nhịp ba cung
bắc” không ai còn hát nữa, vì hát cho ai nghe, bởi khách tài hoa phong lưu
bậc nhất không còn ở trên đời.
Tiếp tục bài thơ, câu thứ 3 và câu thứ 4 như sau:
Khói hoàng đô thoắt liền mây Đế Thành
“Khói
hoàng đô” thì dễ hiểu. Đó là khói ở kinh đô. Còn mây Đế Thành
là gì? Đế Thành là thành Hoàng Đế. Thành Hoàng Đế là
kinh đô của triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam từ năm 1776 tới năm 1793. Năm 1778, sau khi đánh bại chúa Nguyễn, Nguyễn
Nhạc lên ngôi hoàng đế nhà Tây Sơn và cho xây dựng kinh đô tại vị trí cũ của
thành Đồ Bàn vương quốc Chăm Pa, đây là nơi của Hoàng đế Thái Đức Nguyễn Nhạc ở
nên gọi là thành Hoàng Đế.
Hai câu trên nói đến sự suy tàn của triều đại Tây Sơn.
“Khói hoàng đô” nói sự thịnh vượng của
đế đô hoàng đế Nguyễn Nhạc. Đế đô đó tên là Thành Hoàng Đế. Sau khi Tây Sơn thua
cuộc, Thành Hoàng Đế bị san bằng, phút chốc đã hóa thành thành mây, gọi là “mây Đế Thành”.
Câu thứ 5 và thứ 6 của “Đọc Lại Người Xưa (1)” như sau:
Chẳng e lưu xú chẳng đành lưu phương
“Lưu
xú”
là lưu tiếng xấu (Lưu danh thiên cổ, lưu xú vạn niên). “Lưu phương” là lưu tiếng thơm cho đời sau. Hát nói của Nguyễn Công
Trứ có câu “Làm cho bách tuế lưu phương,
trước là sĩ sau là khanh tướng”.
Hai câu thơ 5 và 6 đề cập đến sĩ phu thời Cao Bá Quát.
“Rồng Lê” là những sĩ phu thời vua
Lê, “phượng Nguyễn” là sĩ phu thời
các vua Nguyễn. Đấy là những người “Phú
quý bất năng dâm/ Bần tiện bất năng di/ Uy vũ bất năng khuất” - hiểu đơn giản
là miễn nhiễm trước những nguy cơ tấn công của tiền bạc, của đói nghèo và bạo lực.
Thứ duy nhất mà họ theo đuổi, và tôn thờ đến khi nhắm mắt xuôi tay là lý tưởng
phụng sự tổ quốc, phụng sự dân tộc mình. Cao Bá Quát là một trong những ngôi
sao sáng của tầng lớp nầy nhưng sinh ra dưới ngôi sao xấu nên đường khoa cử, đường
hoạn lộ đều gặp trắc trở, để cuối cùng bị họa diệt thân, họa tru di tam tộc.
Bốn câu thơ 7 và 8, 9 và 10, Vũ Hoàng Chương nhắc đến
cái chết bị chém đầu của Cao Bá Quát:
Máu tuôn phách dựng phố phường còn mưa
Cơn buồn lọt gió mành thưa
Mấy mươi giông bão cho vừa nhịp ba
Về cái chết của Cao Bá Quát có nhiều thuyết khác nhau.
Sử nhà Nguyễn ghi chép về cái chết của Cao Bá Quát, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa
nông dân Mỹ Lương nổ ra bắt đầu ở Quốc Oai (Sơn Tây), rằng ông bị bắn chết ở trận
tiền (1855). Truyền thuyết cho rằng Cao Bá Quát bị bắt, giải về Hà Nội rồi đưa
vào giam ở Huế trước khi đem ra chém đầu, Trong thời gian bị giam trong ngục
ông làm hai đôi câu đối nổi tiếng:
Ba vòng dây xích bước còn vương.
và:
Một nhát gươm đưa, đéo mẹ đời!
Trong bốn câu thơ trên, Vũ Hoàng Chương đã hư cấu cho
trời đất cũng hát tiếng hát ca trù thảm thiết bằng nhưng cơn gió lọt vào mành
thưa khi nhà thơ Cao Bá Quát bị chém trong một ngày mưa. Để rồi tiếp hai câu
thơ chót, Vũ Hoàng Chương đã cho tiếng ca của trời đất đó thê thảm đến nỗi
không một danh ca Bắc Hà nào có thể diễn đạt được hết nỗi bi thương kia:
Mời ai danh sĩ Bắc hà về nghe.
Quê hương của Cao Bá Quát là tỉnh Bắc Ninh, do đó ông
chính là kẻ sĩ miền Bắc. Câu thơ “Mời ai
danh sĩ Bắc hà về nghe” như một lời kêu than, một lời phân bua, một lời oán
trách đến người kẻ sĩ Bắc Hà, mời họ nghe tiếng khóc của mưa gió cho cái chết của
họ Cao còn ai oán, bi thương nhiều hơn tiếng ca trù của một danh ca Bắc Hà than
vản.
Nhà thơ La Thụy cho biết, “ĐọcLại Người Xưa” bài 1 là một trong 12 bài thơ di cảo của Vũ
Hoàng Chương sáng tác năm 1975-1976, là thời kỳ nhà thơ lâm vòng lao lý, tù tội.
Mười hai bài thơ “Đọc Lại Người Xưa”
nầy tác giả phải đưa vợ cất dấu rồi chuyền tay cho nhà thơ Hoàng Hương Trang giữ
hộ. Điều này cho ta có thể suy đoán, 12 bài thơ là nỗi lòng mà thi nhân ấp ủ
vào đó. Vũ Hoàng Chương đã đọc lại 12 thi nhân xưa để sáng tác về họ, lấy cùng
nhan đề “Đọc Lại Người Xưa” để lồng gởi
vào đó niềm riêng mà nhà thơ không thể nói công khai ra được.
Châu Thạch tôi vì ái mộ Vũ Hoàng Chương, nên tra cứu để
tìm hiểu nhà thơ trên mạng, biết được điều gì xin chép lại điều đó, nghĩ rằng
nên truyền thông ra để thân hữu, bạn đọc có thể biết thêm về cuộc đời, sự nghiệp
văn chương của một thi nhân nổi danh một thời. Bài viết có nhiều tư liệu đã
thành phổ biến tôi không đưa vào ngoặc kép, còn những tư liệu mới tôi đều đưa vào
ngoặc kép hoặc nói xuất xứ rõ ràng. Mong được tha lỗi những sai trật hoặc nhận
định khác ý của tôi, vì đây chỉ là bài viết của một người tay ngang múa rìu qua
mắt thợ mà thôi.
Hà nhân CÁNH xướng bắc cung thanh”
Trả lờiXóa“Ai lại còn đàn hát giọng Bắc”
(Cao Bá Quát)
*
CÁNH chứ không phải là CÁCH như bác Châu Thạch cứ ghi nhầm. Do bài viết này bác gửi cho tôi chứ nếu gửi cho những trang web khác nữa, sẽ có sự lầm lẫn lớn về ý nghĩa nếu so sánh với câu thơ :
“Cách giang do xướng Hậu đình hoa”
隔 江 猶 唱 後 庭 花。
Trong bài thơ “Bạc Tần Hoài” của Đỗ Mục
*
CÁNH 更
- Từ điển Trần Văn Chánh
① Càng:
② Lại, lại thêm:
- Từ điển Nguyễn Quốc Hùng
Lại một lần nữa — Càng, rất, lắm
Một âm khác là Canh.
XƯỚNG 唱 :
+ Hát, ca. Xướng, hát trước để cho người ta hoạ gọi là xướng.
+ Xướng lên trước, đề xướng; gọi tên, xướng danh…
CÁNH XƯỚNG 更 唱 : Hát thêm, hát lại…
*
Trở lại bài thơ “Bạc Tần Hoài” của Đỗ Mục với 2 câu cuối bài
“Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng Hậu đình hoa”
Với ý nghĩa:
“Đào hát biết chi sầu mất nước
Cách sông hát khúc Hậu đình hoa”
Như vậy, từ ngữ CÁNH XƯỚNG trong bài thơ “Đào Đề Nương Xá” của Cao Bá Quát mà viết nhầm thành CÁCH XƯỚNG, dễ bị liên tưởng với CÁCH GIANG DO XƯỚNG trong bài thơ “Bạc Tần Hoài” của Đỗ Mục. “Đào Nương” của Cao Bá Quát dễ bị hiểu nhầm là “thương nữ” (ngoài ý nghĩa “ca nữ” còn hiểu là “ca kỹ” (gái lầu xanh) của Đỗ Mục thì tội nghiệp lắm !
Về địa danh Nam Phố, nhà thơ Bạch Cư Dị nhà thơ thời Trung Đường có viết bài thơ NAM PHỐ BIỆT
Trả lờiXóaNAM PHỐ BIỆT
Nam Phố thê thê biệt,
Tây phong niệu niệu thu.
Nhất khán trường nhất đoạn,
Hảo khứ mạc hồi đầu.
Bạch Cư Dị
CHÚ THÍCH:
南浦 Nam Phố: địa danh. Nghĩa đen là bến sông phía nam, thường được dùng phiếm chỉ nơi chia tay.
別 biệt: biệt li, chia tay.
淒淒 thê thê: (rét/buồn) tê tái.
西風 tây phong: gió tây, gió thu.
嫋嫋 niệu niệu: ở đây hình dung làn gió thu nhè nhẹ phe phất. 嫋 niệu: dáng con gái mềm mại, thướt tha.
一看腸一斷 nhất khán trường nhất đoạn: nhìn một cái ruột đứt một khúc.
好去 hảo khứ: đi nhanh, mạnh mẽ tiến bước, dứt khoát ra đi.
莫回頭 mạc hồi đầu: chớ quay đầu nhìn lại.
白居易 Bạch Cư Dị, nhà thơ thời Trung Đường, tác giả của bài Tì bà hành nổi tiếng, từng được Phan Huy Thực/Vịnh dịch nôm: “Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách...”
DỊCH NGHĨA:
CHIA TAY NƠI NAM PHỐ
Tê tái chia tay nơi Nam Phố,
Trời thu, gió tây phe phẩy thổi.
Nhìn một cái ruột lại đứt một khúc,
Hãy dứt khoát ra đi, đừng ngoái đầu lại nữa.