Đầu tháng 4 năm 1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương bị nhà cầm quyền bắt, đưa vào giam ở khám Chí Hoà. Một số thơ ông làm trong thời gian này (chẳng hạn bài Đường luật bát cú mở đầu bằng câu “Thấm thoắt vào đây tháng đã tròn”) đã được chuyển về cho gia đình và đã được phổ biến. Đầu tháng 9-1976, thấy sức khỏe của ông suy sụp, những người cầm quyền thả ông về để chết ở nhà.
Trong mấy tháng bị giam và trong ít ngày sau khi về tới nhà, ông có làm một số thơ nữa. Theo nhà văn Hoàng Quốc Hải trong bài “Gặp bà Thục Oanh, nhớ thi tài Vũ Hoàng Chương” viết ngày 1 tháng 12 năm 1998, đăng trên tạp chí Sông Hương (trong nước) số 126, tháng 08 năm 1999, thì ông được bà Chương cho biết trong những ngày cuối cùng sau khi từ Chí Hòa về, thi sĩ Vũ Hoàng Chương “có làm một bài về Nguyễn Thị Lộ, một bài về Hồ Xuân Hương” và “bài nào cũng da diết lắm”:
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c191/n4128/Gap-ba-Thuc-Oanh-nho-thi-tai-Vu-Hoang-Chuong.html
Bài viết của nhà văn Hoàng Quốc Hải sau cũng được in lại trong cuốn Trắng án Nguyễn Thị Lộ (Hà Nội : NXB Phụ Nữ, 2004).
Đầu năm 2003, người viết những dòng này nhận được từ
bà Vũ Hoàng Chương (gửi từ địa chỉ ở Quận Bình Thạnh, Sàigòn) một bài thơ thủ
bút của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, không có nhan đề nhưng mở đầu bằng hai câu thơ
của Nguyễn Du:
Văn
tự hà tằng vi ngã dụng
Cơ
hàn bất giác thụ nhân liên
Đây là hai câu 3-4 trong bài “Khất thực” (Xin ăn) của
Nguyễn Du, bài thứ 14 trong Thanh Hiên thi tập. Hai câu trên có nghĩa:
Văn
chương nào đã từng được việc gì cho ta
Không
dè vì đói rét phải nhận lòng thương hại của người.
Với những chữ run rẩy, yếu ớt, thi sĩ Vũ Hoàng Chương viết không đủ nét. Ông viết “hà tàng” thay cho “hà tằng”. Đó là một bài lục bát gồm 12 câu, mở đầu bằng câu, “Chẳng dùng chi được văn tài,” kết thúc bằng câu, “Khúc đâu lơ láo mảnh đời thi vương.” Cuối bài ông viết: “Chí Hòa 1976” và ký tắt ba chữ “V.H.C.”
Bà Vũ Hoàng Chương cũng gửi thêm một bài thơ của bà,
nhan đề “Làn gió giao thần.” Trong
bài, bà cho biết từ khi “cánh hạc tung trời”
thì “oanh ca lạc lõng” (khuê danh của bà là Đinh Thục Oanh). Sau những “canh khuya thao thức” với “gối lẻ âm thầm thấm lệ rơi,” bà mang
tâm trạng chán nản, không thiết sống nữa: “Long
đong thân thế thiết chi đời.” Bà ký tên dưới bài thơ và đề ngày 18 tháng 1
năm 2003.
Sau khi nhận được hai bài thơ trên (cùng một bức thư 4 trang và một tấm hình của bà Vũ Hoàng Chương, chụp trước bàn thờ cố thi sĩ), người viết những dòng này đã chia sẻ với một số thân hữu từng có giao tình thân với thi hào họ Vũ: thi sĩ Cao Tiêu, giáo sư Lưu Trung Khảo (dạy chung với thi sĩ Vũ Hoàng Chương ở trường Chu Văn An, Sàigòn), nhà văn Nhật Tiến (dạy chung với thi sĩ Vũ Hoàng Chương ở trường Văn Lang, Sàigòn). Các vị vửa kể cũng chia sẻ lại với một số thân hữu khác, và hai bài thơ trên đã được phổ biến một cách giới hạn.
Bà Vũ Hoàng Chương tạ thế năm 2005. Hai năm sau, một người yêu thơ Vũ Hoàng Chương từ Mỹ về Việt Nam, đến thăm ông Vũ Hoàng Tuân, người con trai duy nhất của ông bà Vũ Hoàng Chương ở Sàigòn. Khi trở lại Mỹ, người bạn ấy trao tay cho người viết những dòng này 12 bài thơ, nói là “do thi sĩ Vũ Hoàng Chương sáng tác trong những tháng cuối của cuộc đời, trong thời gian ở Chí Hoà và sau khi được đưa từ Chí Hòa về.” Không muốn những bài thơ ấy bị tịch thu, thiêu hủy, ông bà Vũ Hoàng Chương đã nhờ nhà thơ Hoàng Hương Trang giữ hộ từ năm 1976. Nay thấy đã khá lâu, nhà thơ Hoàng Hương Trang đem trả lại, và bà Vũ Hoàng Chương cùng ông Vũ Hoàng Tuân muốn thi sĩ Cao Tiêu cùng người viết những dòng này “tìm cách xuất bản ở ngoài nước,” cho biết đó là “những bài thơ cuối cùng của thi sĩ Vũ Hoàng Chương.”
Trong 12 bài thơ này thì một bài có thủ bút của cố thi
sĩ. Đó là bài mở đầu bằng hai câu “Văn tự
hà tằng vi ngã dụng …” của Nguyễn Du đã nói ở trên. Các bài còn lại được
làm theo mô thức ấy: mở đầu bằng hai câu thơ của một nhân vật lịch sử hay văn học
trong quá khứ (chẳng hạn bài về Phạm Ngũ Lão mở đầu bằng hai câu “Nam nhi vị liễu công danh trái, Tu thính
nhân gian thuyết Vũ hầu” của vị danh tướng họ Phạm). Sau đó là 12 câu lục
bát của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Tổng cộng gồm 12 bài, mỗi bài có 12 câu thơ Vũ
Hoàng Chương. Nhân thấy thi nhân họ Vũ từng dùng từ “Thập nhị nhân duyên” trong
những câu sau đây:
Từ đó dìu nhau mở lối
Vào thăm Đồng Tử Tuyết Sơn
Thập nhị nhân duyên cùng hỏi
Vì
đâu Bướm xót Hoa hờn
(bài thơ
“Tuyết Hận” trong thi tập Cảm Thông)
Người bạn đem 12 bài thơ từ Việt Nam sang Mỹ trao cho chúng tôi đã đề nghị gọi những bài thơ ấy là “Thập nhị nhân duyên.”
Nhận thấy ý tưởng gửi trong những bài thơ di cảo này
quá kín đáo, thi sĩ Cao Tiêu, giáo sư Lưu Trung Khảo, và người viết những dòng
này đã cùng thảo luận, phân tích thật kỹ bài thơ về Bành Ngọc Lân (một tướng
lãnh Trung Hoa cuối đời Thanh), với kết quả là bài “Một bài thơ ngụ ý thật hàm súc của thi sĩ Vũ Hoàng Chương” do Trần
Từ Mai viết với sự hội ý của hai vị vừa kể đã được phổ biến một cách giới hạn
trong mấy năm vừa qua:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/07/mot-bai-tho-ngu-y-that-ham-suc-cua-thi.html
Thi sĩ Cao Tiêu tạ thế đầu năm 2012. Sức khỏe giáo sư Lưu Trung Khảo sút giảm một cách đáng kể cuối 2014, đưa tới việc ông quá vãng cuối năm 2015. Trong ba người đảm nhận việc phân tích, chú giải những bài thơ với ý nghĩa kín đáo của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, chỉ còn một người. Sự việc không có thủ bút của cố thi sĩ cho 11 bài “Đọc lại người xưa” (trừ bài về Nguyễn Du) khiến người viết những dòng này cũng cảm thấy dè dặt trong việc tiếp tục giới thiệu và phổ biến.
Nay được tin ở trong nước, nữ thi sĩ Hoàng Hương Trang đã cho in cả 12 bài thơ “Đọc lại người xưa” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương trong phần “Phụ lục” của Tuyển tập Văn xuôi Hoàng Hương Trang, xuất bản năm 2012. Bà cho biết khi tới thăm thi hào họ Vũ sau khi ông được thả từ Chí Hoà về, bà đã được Vũ Hoàng Chương đọc cho nghe 12 bài thơ ấy để chép lại. Bà cũng đã đọc lại cho ông bà Vũ Hoàng Chương nghe để được xác nhận là đúng trước khi đem về cất giữ. Lời thơ trong những bài này hệt như trong những bài thi sĩ Cao Tiêu, giáo sư Lưu Trung Khảo và Trần Từ Mai nhận được từ gia đình thi sĩ Vũ Hoàng Chương năm 2007. Chuyện nhà thơ Hoàng Hương Trang được ông bà Vũ Hoàng Chương giao cho giữ 12 bài thơ ông làm trong thời gian bị giam ở Chí Hoà và sau khi về đến nhà năm 1976 là điều có thật.
Mối thân tình giữa ông bà Vũ Hoàng Chương và nhà thơ
Hoàng Hương Trang cũng dễ đưa tới sự kiện ấy.
Hoàng Hương Trang tên thật là Hoàng Thị Diệm Phương,
sinh năm 1938 ở Vân Thê, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên. Bà tốt nghiệp trường
Cao Đẳng Mỹ Thuật năm 1960, trường Sư Phạm Mỹ Thuật năm 1961. Bà từng dạy hội họa
ở nhiều trường Trung học, và tại trường Đại học Mỹ thuật Sàigòn. Bà được giải hội
họa trong một kỳ thi ở Huế năm 1958, và là tác giả 6 tập thơ từ 1964 đến 2002,
trong đó có 4 tập xuất bản trước năm 1975:
Khép
đôi mi nhỏ (1964)
Linh
hồn cỏ biếc (1968)
Túy
ca (1972)
Hợp
tuyển (1974)
Thơ của bà được in chung trong hơn 30 tuyển tập thơ
văn trong và ngoài nước. Bà cũng có tên trong cuốn Thi nhân Việt Nam thế hệ
1954 – 1973 của Nguyễn Tấn Long và Phan Canh (Sàigòn : Sống Mới, 1974).
Như thế Hoàng Hương Trang trẻ hơn Vũ Hoàng Chương 23
tuổi (1938-1915), ít tuổi hơn một số môn sinh của ông. (Trên giấy tờ, Vũ Hoàng
Chương được ghi là “sinh năm 1916” nhưng thật ra ông sinh năm 1915). Bên cạnh mối
liên tài giữa hai nhà thơ, Vũ Hoàng Chương lưu tâm hơn tới Hoàng Hương Trang có
lẽ từ khi bà cho in tập Túy Ca năm 1972, nhắc ông nhớ đến tập Thơ Say với “Bài
ca tận túy” của ông. Tinh thần "đồng thanh đồng khí" giữa hai nhà thơ
chung một nguồn cảm hứng đã được Vũ Hoàng Chương nói rất rõ trong bài thơ thủ
bút “Cảm đề Tuý ca,” ông viết để tặng Hoàng Hương Trang năm 1972:
“Bài
ca Tận túy” đi hoang
Biết
đâu Hoàng lại gặp Hoàng chiều nay.
Cùng làm thơ, chung một nguồn cảm hứng, lại nhận thấy
trong danh hiệu có những chữ giống nhau, Vũ Hoàng Chương dễ dàng nhận thấy nơi
Hoàng Hương Trang một “trần ai tri kỷ.” Cảm động trước thịnh
tình của một nhà thơ tiền bối, Hoàng Hương Trang quan tâm thăm nom Vũ Hoàng
Chương sau khi ông bị Nhà nước bắt giam. Biết rằng để thơ ở nhà sẽ không an
toàn, việc giao cho Hoàng Hương Trang giữ hộ những bài thơ cuối cùng là một điều
“hợp tình hợp lý” đối với ông bà Vũ
Hoàng Chương. Nhờ thế những bài “Đọc lại
người xưa” Vũ Hoàng Chương làm ra trong thời gian bị giam ở Chí Hoà và sau
khi về nhà năm 1976 đã không bị mai một.
Trong 12 bài thơ chúng tôi nhận được năm 2007, thì bài
về Nguyễn Du có thủ bút của tác giả. Hai bài về Nguyễn Thị Lộ và Hồ Xuân Hương
đã được bà Vũ Hoàng Chương đề cập tới với nhà văn Hoàng Quốc Hải như đã nói
trên. Bài về Bành Ngọc Lân là một trường hợp đặc biệt. Họ Bành là một viên tướng
Trung Hoa cuối đời Thanh, không có liên quan gì tới Việt Nam. Số người Việt biết
tới ông ta không nhiều. Hiểu tường tận về cuộc đời Bành Ngọc Lân để đưa ra một
thi phẩm đặc sắc về ông, có lẽ chỉ nhà thơ có kiến thức uyên bác Vũ Hoàng
Chương mới làm nổi. Đó là lý do thi sĩ
Cao Tiêu, giáo sư Lưu Trung Khảo vả tôi cùng tin rằng bài thơ ấy đúng là của Vũ
Hoàng Chương.
Trong 12 bài thơ “Đọc
lại người xưa” của Vũ Hoàng Chương, có 6 bài lấy cảm hứng từ tác phẩm của
những nhân vật lịch sử hay văn học Việt Nam: Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát. Những bài còn lại lấy cảm
xúc từ tác phẩm của một số nhân vật lịch sử hay thi sĩ Trung Hoa: Hán Vũ đế,
Thôi Hộ, Đỗ Mục, Đỗ Thu nương, Trần Đào, Bành Ngọc Lân.
Ở trong nước năm 2012, nhà thơ Hoàng Hương Trang mới
chỉ làm công việc in ra những bài thơ ấy. Theo quan niệm của chúng tôi, nếu
phân tích, chú giải các điển cố và trình bày được ẩn ý của tác giả (như trường
hợp bài về Bành Ngọc Lân), người đọc sẽ thấy rõ giá trị của những bài thơ ấy
hơn. Đó là những điều chúng tôi sẽ cố gắng làm.
Kèm theo phía sau là hai bài thơ:
- “Cảm Đề Túy
Ca,” thơ thủ bút của Vũ Hoàng Chương viết tặng Hoàng Hương Trang, đề ngày
16 tháng 6 năm 1972.
- “Chiều Say Nhớ
Hoàng,” thơ Hoàng Hương Trang, sáng tác nhân ngày giỗ thứ 30 của Vũ Hoàng
Chương, 14 tháng 8 âm lịch năm Bính Tuất, 2006.
Trần Từ Mai
Nguồn:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/11/gioi-thieu-12-bai-tho-oc-lai-nguoi-xua.html
Trần Đào là một nhà thơ Trung Hoa thời Vãn Đường, sống trong khoảng 812-885. Bài thơ khiến ông được biết đến nhiều hơn cả là bài “Lũng Tây hành”:
Trả lờiXóahttp://viethocjournal.com/wp-content/uploads/2019/12/https-1-bp-blogspot-com-5bbb98lpor8-xesctrdabvi.jpeg
Diễn ra văn xuôi, những câu thơ trên có nghĩa như sau:
“Thề quét sạch giặc Hung Nô không đoái đến thân mình
Năm ngàn binh sĩ mặc áo bằng da con điêu chôn xác trong bụi đất Hồ
Đáng thương cho đống xương bên bờ sông Vô Định
Vẫn còn là người trong giấc mơ của kẻ ở phòng khuê.”
Đây là một bài thơ viết về chiến tranh với niềm thương xót. Người ra đi chết đã từ lâu, chỉ còn là một đống xương bên bờ một dòng sông ở nơi xa xăm nhưng những người vợ, những người yêu đang chờ đợi ở nhà vẫn không được biết, đêm đêm vẫn ôm ấp mộng đẹp với hình bóng “chàng.”
“Vô Định hà” là một con sông chảy qua tỉnh Thiểm Tây, ở Tây Bắc Trung Hoa. Ven con sông ấy là nơi bao chiến sĩ đã bỏ mình vì những cuộc tranh chiến giữa chính quyền Trung Hoa các thời với các lân bang phía Tây Bắc. Trong Truyện Kiều có câu, “Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu.” Bài thơ có thể tạm dịch như sau:
Một nguyện quên thân quét rợ Hồ
Năm ngàn chôn xác đất Hung nô.
Thương ơi, xương trắng bờ Vô Định
Nay vẫn phòng ai giữa giấc mơ.
Hay:
Quét Hung nô, mạng chẳng cần
Năm ngàn anh tuấn vùi thân đất Hồ.
Sông Vô Định, đống xương khô
Đêm đêm vẫn dệt giấc mơ khuê phòng.
Bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” của Vũ Hoàng Chương đã lấy cảm hứng từ hai câu cuối của bài thơ ấy.
ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA: TRẦN ĐÀO
Trả lờiXóahttp://viethocjournal.com/wp-content/uploads/2019/12/https-1-bp-blogspot-com-c48xghnxbdo-xescdz7sxui.jpeg
Bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” của Vũ Hoàng Chương đã lấy cảm hứng từ hai câu cuối của bài thơ ấy.
Mười câu đầu không có gì đặc sắc. Tác giả đã chỉ khai triển ý của Trần Đào: “Mỗi đêm chàng vẫn trở về trong giấc mơ, vẫn trẻ trung, gây nhiều cảm xúc. Hàng ngày, hàng tháng, rồi hàng năm, nàng vẫn chờ đợi, đâu biết rằng chàng đã trở thành một nắm xương khô trắng ở bờ sông bãi cát bên trời”.
Vũ Hoàng Chương bày tỏ niềm cảm thương đối với nàng: những muốn “trăm năm tạc một chữ đồng,” ngờ đâu hiện nay đang “lẻ một nét sầu” đến tận xương. Ý tưởng then chốt của nhà thơ họ Vũ nằm trong hai câu kết:
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.
Con đường nào đã gây nên bao nhiêu thảm cảnh, bao nhiêu máu và nước mắt như thế?
Con đường ấy có ý niệm “Nam Bắc,” nhưng cũng có ý niệm “âm dương” (sống và chết) trong đó…
ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA: TRẦN ĐÀO
Trả lờiXóa“Khả liên Vô Định hà biên cốt
Do thị thâm khuê mộng lý nhân.”
Trần Đào
*
“Chàng về trong mộng đêm đêm
Trẻ như măng, thịt da mềm như tơ
Ngày qua nàng vẫn trông chờ
Tháng, rồi năm, vẫn giấc mơ liền cành
Biết đâu chàng đã trở thành
Xương tàn một nắm vô danh bên trời
Bờ sông bãi cát bồi hồi
Đã khô rồi, đã trắng rồi, biết đâu
Chữ đồng tạc lấy cho sâu
Ai hay lẻ một nét sầu đến xương
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.”
Vũ Hoàng Chương
(1976)
ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA: NGUYỄN DU
Trả lờiXóa“Văn tự hà tằng vi ngã dụng
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên”
Nguyễn Du
*
Chẳng dùng chi được nhân tài
Thân này lụy áo cơm ai bất ngờ
Phút giây chết điếng hồn thơ
Nét đau mặt chữ bây giờ còn đau
Chắc gì ba trăm năm sau
Đã ai vào nổi cơn sầu nằm đây
Nếu không cơm áo đọa đầy
Như thân nào thịt xương này bỗng dưng
Chết theo vào đến lưng chừng
Say từng mảnh rớt, mê từng khúc rơi
Nửa chiều say ngất mê tơi
Khúc đâu lơ láo mảnh đời Thi vương.
Vũ Hoàng Chương
https://2.bp.blogspot.com/-KqT-Wr3YsXo/WSXNiaNcaeI/AAAAAAAAEKU/mkAl78xbfyMu5bJP4L0JbLnPslZ89yyRACLcB/s1600/BANHNGOCLANdlnx.jpg
Trả lờiXóaBành Ngọc Lân
Bành Ngọc Lân (彭玉麟 -- Peng Yulin) là một danh tướng Trung Hoa cuối đời Thanh, sinh năm 1816, mất năm 1890. Khi cuộc loạn Thái Bình Thiên Quốc (với những lãnh tụ Hồng Tú Toàn, Dương Tú Thanh …) bùng nổ, chiếm gần nửa nước Trung Hoa, gồm cả Nam kinh để lập kinh đô, rạch đôi giang sơn với nhà Thanh trong 11 năm từ 1853 tới 1864, triều đình nhà Thanh đã rung rinh, đất nước cực kỳ xáo trộn. Góp công đáng kể nhất trong việc dẹp yên được Thái Bình Thiên Quốc là một nhân sĩ tỉnh Hồ nam là Tăng Quốc Phiên (Zeng Guofan) cùng một đạo quân tình nguyện, đa số gốc Hồ nam, lấy tên là “Tương quân” (“quân đội vùng sông Tương,” một con sông chảy qua tỉnh Hồ nam). Bành Ngọc Lân là một tướng lãnh của đạo quân tình nguyện ấy, chỉ huy thủy binh, có công rất lớn trong việc dẹp Thái Bình Thiên Quốc. Sau đó ông được cử làm Thủy sư Đô đốc, dần dần thăng tới Binh bộ Thượng thư của nhà Thanh. Sau khi người Pháp lấy miền Bắc Việt Nam và đem quân tới biên giới Hoa Việt năm 1883-84, Bành Ngọc Lân đã tới biên giới trong chức Binh bộ Thượng thư để quan sát cùng tổ chức việc phòng thủ. Ông về hưu và mất ít năm sau đó.
Tiểu Cô sơn:
Có nhiều Tiểu Cô sơn (小孤山 -- Xiaogushan hay Hsiao ku shan) trong lãnh thổ Trung hoa. Nếu tra cứu các tài liệu địa dư, ta sẽ thấy ít nhất 5 ngọn núi có tên như thế tại Nội Mông cổ, Cam túc (Gansu), Cát lâm (Jilin), Liêu ninh (Liaoning), và An huy (Anhui). Ngọn Tiểu Cô sơn do Bành Ngọc Lân chiếm được và nhắc tới trong bài thơ này nằm trong tỉnh An huy. Núi này ở gần tỉnh lỵ An khánh (Anqing), sát bên bờ Trường giang (Dương tử giang). Quân Thái Bình Thiên Quốc đóng trên núi này đã bắn xuống dữ dội, ngăn chặn đường tiến binh của đạo thủy quân do Bành Ngọc Lân chỉ huy trên đường tới bao vây Nam kinh. Muốn các chiến thuyền của mình có thể đi qua một cách an toàn, Bành Ngọc Lân bắt buộc phải đánh chiếm ngọn núi. Theo các sử liệu Trung hoa, việc này xảy ra vào tháng 2 năm 1853. Sau khi chiếm được núi, Bành Ngọc Lân cao hứng làm ra bài thơ sau:
https://2.bp.blogspot.com/-u0vTSD1mscs/V7Ptv0hsdQI/AAAAAAAACa0/vqqGUjUCT2wR26zgq2jZYfwZJG7CSDGlgCLcB/s640/BanhNgocLan.jpg
Nghĩa:
“Thư sinh vừa cười vừa đốc thúc chiến thuyền tiến lại
Trên sông, cờ xí, mở ra dưới ánh mặt trời rực rỡ
(hay: cờ xí mở ra, rực rỡ như ánh mặt trời?)
Mười vạn quân dũng mãnh cùng hát khúc ca chiến thắng:
“Bành lang đã đoạt được Tiểu Cô trở về.”
https://3.bp.blogspot.com/-AmbvHKFuwzU/WCyeiH4UeqI/AAAAAAAADgg/klurdLlevfgEDHk46I4UGw49w1QBsKGHACLcB/s1600/BANHNGOCLAN.jpg
Trả lờiXóaMối thiện cảm Vũ Hoàng Chương dành cho Bành Ngọc Lân:
Cùng có một tình đầu tan vỡ và cùng suốt đời không quên mối tình ấy, thi sĩ Vũ Hoàng Chương hẳn đã dành rất nhiều thiện cảm cho Bành Ngọc Lân. Ý tưởng nguyên thủy trong các câu:
Bành lang đoạt Tiểu Cô về
Hùng binh mười vạn nhất tề vỗ tay
Nhưng:
“Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây”
biểu lộ một thông cảm “đồng cảnh” giữa thi nhân họ Vũ với vị tướng quân kiêm họa sĩ họ Bành: không thể làm sống lại người yêu cũ, không thể đổi được định mệnh. Dù có nhân chuyện cùng một âm “cô” để cố tình hiểu “ngọn núi cô đơn” ra “người cô bé nhỏ” thì sau khi đoạt về, “Tiểu Cô” cũng không còn sự sống. Nhưng mối thông cảm Vũ Hoàng Chương -- Bành Ngọc Lân đã dừng ở đó. Toàn bài, nhất là 6 câu cuối, là những phán đoán rất bình tĩnh của tác giả về cuộc thống nhất đất nước năm 1975