Vua
Lê Thánh Tông được các sử gia từ xưa đến nay ghi nhận là vị hoàng đế kiệt xuất,
đã lập nên một trong những giai đoạn rực rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam thời
phong kiến.
Đây cũng là dịp để chúng ta nhìn về tiền nhân với tấm
lòng thành kính, ngưỡng mộ về một đấng quân vương được Đại Việt sử ký toàn thư
điểm xét là: "Vua sáng lập chế độ,
văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng
tài lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể hơn được".
Những lời xưng tụng, ngợi ca của đương thời cũng như hậu thế đối với vị vua lên ngôi sau loạn Lê Nghi Dân, không phải là lời hoa mỹ hay nói vống cho có đâu. Bởi nếu xét 37 năm làm vua của Lê Thánh Tông, những gì ông làm được cho triều đại, cho nước nhà, đáng để sử vàng, bia đá tạc ghi lắm. Mà thành tựu trị nước, không chỉ ở một lĩnh vực nào đó thôi đâu, công nghiệp của vua trải rộng khắp hết thảy mà trong phạm vi bài viết này, câu chữ không đủ để ta đi sâu mà nói ra cho hết được. Chúng tôi chỉ xin điểm xét qua mà thôi.
Hình
tượng vua Lê Thánh Tông trên bìa sách Kể chuyện lịch sử Việt Nam bằng tranh
- NXB Trẻ.
- NXB Trẻ.
LÊ
THÁNH TÔNG, VỊ MINH QUÂN NƯỚC ĐẠI VIỆT
Trần Đình Ba
Sử cũ cho hay, ngày 30 tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1497),
vua Lê Thánh Tông băng ở điện Bảo Quang. Nhân ngày giỗ của vị vua sáng nhà Lê
sơ, chúng tôi có vài dòng gọi là tri ân công nghiệp trong 37 năm trị vì của vị
vua giỏi nước Việt.
Với công nghiệp trị nước của vua Lê Thánh Tông
(1460-1497), đương thời trong Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi lại lời bình của
sử thần Vũ Quỳnh về vua: "Vua tư trời
cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài, đại lược, võ giỏi văn hay mà cái học
của thánh hiền lại đặc biệt siêng năng, tay không lúc nào rời quyển sách. Các tập
kinh, sử, các lịch, toán, những việc thánh thần, không có gì bao quát tinh
thông. Văn thơ thì vượt trên cả những khuôn mẫu của các văn thần […] Người hiền
tài chọn được nhiều hơn cả đời vua. Văn võ đều dùng, tuỳ theo sở trường của từng
người. Vì thế, có thể sửa dựng chính sự, chế tác lễ nhạc, hiệu lệnh văn chương
rõ ràng, có thể cho người sau noi theo".
Còn với tôi thần nhà Lê sơ, sau khi vua mất, đại diện
là Thân Nhân Trung soạn bài tán ca ngợi công đức của đức hoàng đế quá cố, trong
đó có đoạn điểm xét công lao của người ngồi ngai vàng:
Giữ
báu nắm phù,
Phát
lệnh chính vị.
Giữ
trung: học tổ,
Dựng
cực: thừa thiên.
Nhân
bồi hậu thế,
Hiếu
kính tổ tiên,
Văn
sáng Khuê, Bích,
Học
sâu uyên nguyên.
Theo
điển, dùng lễ,
Lánh
gian, thân hiền.
Trị
nước, chín kinh,
Dùng
quan: tám bính.
Triệu
dân vỗ yên.
Trăm
việc chấn chỉnh.
Văn
giáo rộng ban,
Vũ
công đại định,
Sử sách các đời sau hầu như đều xem thời trị vì của
vua Lê Thánh Tông là một chuẩn mực mà noi theo. Dạo thời Nguyễn, cùng là kẻ ngồi
ngai vàng trị nước, vua Tự Đức nhìn về tiền nhân cũng phải ngợi ca trong Ngự chế
Việt sử tổng vịnh là: "Lê Thánh Tông
sáng lập chế độ mới mẻ, văn học và nhân vật bấy giờ rất khả quan; đất đai và bờ
cõi nước nhà càng thêm rộng. Vào khoảng niên hiệu Quang Thuận và Hồng Đức, nước
nhà trong ngoài đều vô sự, và hàng năm lúa thóc được mùa luôn, cho nên người ta
gọi là đời thái bình thịnh trị vậy".
Đến từ phương Tây xa xôi, nhưng khi tìm hiểu sử Việt,
những tác giả người Pháp cũng không ngoài mẫu số chung mà nhìn nhận tốt đẹp về
vua Thánh Tông. Như Alfred Schreiner trong Abrégé de l'Histoire d'Annam (Đại
Nam quốc lược sử) đã không tiếc lời mà khen vua: "Vua nầy công bình, thông minh, oai nghiêm, và cần quyền lắm, người
xem xét cùng quy chế mọi việc trong nước lại trúng cách, hơn các vì vương đế
khác".
Lại để minh chứng cho sự tài giỏi của vị vua có niên
hiệu Hồng Đức, Alfred Schreiner vẫn trong tác phẩm trên, đã dẫn ra hằng hà sa số
những việc làm được của vị vua thứ tư nhà Lê sơ: Về hành chính, chia nước làm
mười hai tỉnh; về quan chế làm cho nhiệm vụ các quan rõ ràng; về lãnh thổ lập "Hồng Đức bản đồ"; về sử có
Ngô Sĩ Liên viết Đại Việt sử ký toàn thư; về nông nghiệp thì khuyến nông, khẩn
hoang, khai sông…
Hồng
Đức bản đồ. Ảnh: Tư liệu sưu tầm
Trong khi đó tác giả A-B trong cuốn Bắc Kỳ tạp lục
đánh giá vua Lê Thánh Tông là "vị
vua vĩ đại của nước An Nam", "thực tế là trong thời kỳ trị vì của
vị vua này, nhiều thành tựu đã được thực hiện".
Hướng cái đường cứu nước theo dân chủ tư sản với
phương cách bạo động, nhưng cụ Phan Bội Châu khi viết Việt Nam quốc sử bình diễn
ca, nhìn nhận về người xưa của thời quân chủ, đã công minh mà có đôi lời về vua
Lê Thánh Tông:
Lại
xem sử đời vua Lê đế,
Như
Thánh Tôn còn kể ai hơn.
Trong nghiên cứu Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa
thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi xem thời vua Lê Thánh Tông là đỉnh cao của nền quân
chủ. Ông viết: "Với Lê Thánh Tông
(1460-1497), nền quân chủ của Việt Nam đạt tới đỉnh điểm. Ba mươi bảy năm trị
vì, một triều đại dài một cách khác thường, đã giúp Thánh Tông có thể thực hiện
một công trình khổng lồ trong mọi lĩnh vực hành chính, kinh tế và xã hội. Hoàn
tất việc tập trung chính trị, thống nhất các thể chế, dùng đồn điền mở rộng diện
tích canh tác, đồng thời, bảo đảm cho người dân một mức sống ổn định bằng biện
pháp quân điền theo định kỳ".
Như trên chỉ là một vài trong muôn vàn những lời tán
dương công đức của vị vua trị vì 37 năm của nhà Lê sơ. Hẳn nhiên, vua phải làm
được gì thì mới nên công nghiệp rực rỡ được ghi nhận như thế chứ?
Tiền
Hồng Đức thông bảo. Ảnh: Tư liệu sưu tầm
Những lời xưng tụng, ngợi ca của đương thời cũng như hậu thế đối với vị vua lên ngôi sau loạn Lê Nghi Dân, không phải là lời hoa mỹ hay nói vống cho có đâu. Bởi nếu xét 37 năm làm vua của Lê Thánh Tông, những gì ông làm được cho triều đại, cho nước nhà, đáng để sử vàng, bia đá tạc ghi lắm. Mà thành tựu trị nước, không chỉ ở một lĩnh vực nào đó thôi đâu, công nghiệp của vua trải rộng khắp hết thảy mà trong phạm vi bài viết này, câu chữ không đủ để ta đi sâu mà nói ra cho hết được. Chúng tôi chỉ xin điểm xét qua mà thôi.
Trong lĩnh vực hành chính: Lần đầu tiên trong thời Lê
sơ, vua cho đo đạc, vẽ bản đồ các đơn vị hành chính, đời sau biết đến là "Hồng Đức bản đồ" được vẽ năm Kỷ Sửu
(1469); đồng thời chia đơn vị hành chính thành phủ, huyện, châu "nhằm đơn
giản hóa việc hành chính và đồng thời tăng thêm quyền lực của nhà vua".
Về quan chế, vua thực hiện việc cải cách khi đặt thêm
sáu tự bên cạnh lục bộ để kết hợp làm việc, kiểm soát lẫn nhau. Trong dùng người,
vua rất thẳng thắn và nghiêm khắc, không quá câu nệ tình riêng. Quan lại dẫu
thân cận hay tài năng có lỗi lệch là bị nghiêm phê. Thế nên mới có trường hợp
Trạng Lường Lương Thế Vinh từng được bộ Lại tiến cử với vua năm Đinh Hợi (1467)
nhưng bị gạch khỏi danh sách những người tài năng, cương trực được tiến cử; Ngô
Sĩ Liên dẫu là sử quan giỏi từng bị chê trách;…
Lại để cho việc trị nước được nghiêm, có quy chế, luật
lệ ràng buộc nhân dân, vua cho soạn Quốc triều hình luật, rồi sau thêm Thiên
Nam dư hạ tập bổ sung giúp duy trì trật tự xã hội, bảo vệ quốc gia và vương quyền.
Trong đời mình, vua cũng chú ý xây dựng quân đội theo chính sách "ngụ binh ư nông" của tiền
nhân. Không những thế còn thân dẫn quân bình Chiêm, mở rộng cương giới quốc gia
năm Tân Mão (1471).
Việc chính trị, quân sự giỏi là thế, vua còn tỏ ra
toàn tài khi là người siêng đọc sách, giỏi văn thơ, lập ra Tao Đàn gồm 28 văn
nhân giỏi đương thời do vua làm "Thiên
Nam động chủ". Di sản thơ văn của hội thơ này và của vua còn để lại
như Quỳnh uyển cửu ca, Hồng Đức quốc âm thi tập… Vua còn là người giải oan cho
Nguyễn Trãi, góp phần khôi phục lại danh tiết và thơ văn của vị công thần bị chết
vì án oan.
Hoặc như trong việc sử dụng người tài, vua cũng là
tiêu biểu khi chú trọng chọn nhân tài qua khoa cử. Trong 31 khoa thi tiến sĩ thời
Lê sơ, chúng tôi thống kê được riêng thời vua là 11 khoa với số tiến sĩ được
ghi danh là 502. Chiếm hơn 1/2 số lượng tiến sĩ thời Lê sơ. Những tên tuổi Thân
Nhân Trung, Lương Thế Vinh, Quách Đình Bảo… còn để lại tiếng tốt trên đời đều ở
thời vua mà ra cả. Lại không để sót nhân tài, ngoài chính sách khoa cử, tiến cử,
tập ấm đã thành lệ, vua còn là người mở đầu cho lệ bảo cử theo đó lấy người có
danh vọng và đạo đức tốt để bổ nhiệm vị trí cao…
Chỉ dăm ba việc điểm qua thôi, ta đã thấy tài năng
toàn diện "Văn giáo rộng ban/Vũ công
đại định" được hiển hiện trong việc trị nước của vua Lê Thánh Tông
trong 37 năm ngồi bệ rồng. Để từ đó, vua làm gương sáng cho các quân vương về
sau. Còn hậu thế đến nay, nhớ về thời Lê sơ thịnh trị, không thể không nhắc đến
đỉnh cao của chế độ nhà Lê sơ với dấu ấn của Lê Thánh Tông.
Nguồn:
https://soha.vn/vi-vua-lam-ruc-sang-nuoc-viet-dau-han-vu-de-duong-thai-tong-cung-khong-the-hon-20200220180813735.htm
https://soha.vn/vi-vua-lam-ruc-sang-nuoc-viet-dau-han-vu-de-duong-thai-tong-cung-khong-the-hon-20200220180813735.htm
Trả lờiXóaMỘT VỊ NI CÔ BỎ TRỐN ĐỂ KHƯỚC TỪ LÀM VỢ VUA LÊ THÁNH TÔNG
Một lần vua Lê Thánh Tông ghé thăm trường Quốc Tử Giám, lúc về có ghé ngôi chùa gần đó là chùa Ngọc Hồ. Vào tới sân chùa, vua nghe thấy có tiếng người tụng kinh, giọng trong trẻo diệu kỳ như vút lên tận tầng mây, lại gần thì ngây ngất, sững sờ khi thấy ni cô đẹp như một tiên nữ giáng trần khiến cho tâm thần đức vua không khỏi xốn xang.
Ni cô quay lại, làm lễ, nhận thấy đôi mắt nhà vua nhìn mình đăm đắm, bèn lấy bút đề vào vách chùa hai câu thơ Nôm:
“Tới đây mến cảnh mến thầy
Tuy vui đạo Bụt, chưa khuây lòng trần!”
Câu thơ nói đúng tâm trạng của vua lại càng làm Lê Thánh Tông xao xuyến, vua liền sai các quan hầu cận làm thơ vịnh để ghi nhớ buổi kì ngộ.
Bài của phó nguyên soái Thân Nhân Trung làm nhanh nhất và hay nhất viết rằng:
"Ngẫm sự trần duyên khéo cực cười
Sắc không, tuy Bụt, ấy lòng người
Chày kình một tiếng tan niềm tục
Hồn bướm ba canh lẩn sự đời
Bể ái nghìn tầm mong tát cạn
Nguồn ân muôn trượng chửa khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây chín rõ mười."
Sau khi nghe xong, ni cô liền phê rằng:
“Hai câu thực và luận còn thiếu ý lại chưa thanh, nên sửa là: Gió thông đưa kệ tan niềm tục/Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời”.
Trước tình hình đó, Vua Lê Thánh Tông thật sự cảm phục trước sự mẫn tuệ và cao khiết của ni cô, bèn một mực rước mời ni cô lên xa giá về cung để lập làm phi.
Biết khó có thể chối từ ngay được, ni cô đành thuận theo nhưng tìm cách thoát khỏi tình cảnh khó xử này. Không rõ bằng cách nào, khi xa giá vừa đến cửa Đại Hưng (khu vực Cửa Nam, Hà Nội ngày nay) thì trong xe không còn thấy bóng ni cô đâu nữa.
Vua Lê Thánh Tông ngạc nhiên tin chắc ni cô là một tiên nữ giáng trần. Lòng ngơ ngẩn tiếc nuối mãi, rồi truyền lệnh cho xây lầu Vọng tiên ở ngay đó để kỷ niệm và cũng để ngóng trông, hy vọng có dịp tái ngộ với người con gái tài sắc ấy.
https://media.doanhnghiepvn.vn/Images/Uploaded/Share/2020/03/23/24-1140-phunutoday.jpg