Có
thể nói Thiền sư Tuệ Sỹ là một trong những danh tăng uyên bác nhất về Phật giáo
trong thời đại hiện nay.
Thiền sư Tuệ Sỹ cũng là một nhà thơ đầy thiền vị qua thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn với
ngôn ngữ thi ca cao vời và sâu thẳm mà giới văn bút và thi ca rất ngưỡng mộ.
Thiền sư Tuệ Sĩ
GIẤC
MƠ TRƯỜNG SƠN HAY NHỮNG PHƯƠNG TRỜI VIỄN MỘNG
Nhất Thanh
“Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản
tình ca vô tận của Đông Phương”
(Những năm anh đi – Tuệ Sĩ)
Trong tất cả những tập thơ tôi đã được đọc từ những
tháng ngày đây đó, có hai tác phẩm gây xúc động và mê hoặc lòng tôi mãnh liệt
nhất. Đó là “Mưa nguồn” của Bùi Giáng
và “Giấc Mơ Trường Sơn” mà tác giả của
nó – Tuệ Sỹ - một thi nhân, một triết gia, một tu sĩ hay đơn giản chỉ là một
con người, tùy theo cảm nhận của mỗi người. Riêng trong bài viết này, tôi muốn
ngắm người thơ qua chân dung nghệ sĩ – một nghệ sĩ chân chánh.
Còn nhớ lần đầu đọc tác phẩm “Tô Đông Pha – Những Phương Trời Viễn Mộng” do anh viết, sự phiêu bồng
chất ngất, vẻ lẫm liệt phi thường đã quyến rũ dị thường tuổi đôi mươi hừng hực
lửa sống. Dẫu chưa bao giờ thấy được “Lô
sơn chân diện mục” bấy lâu hằng ngưỡng mộ, dẫu biết rằng “Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự”, nhưng
trong đời ai cấm được những giấc mơ. Anh gọi những giấc mơ của anh là “Giấc mơ Trường Sơn”, cõi thi ca ai ngồi
đoán mộng bao giờ? Chỉ xin được một lần dự vào “khung trời hội cũ” để “mộng
kiêu hùng” không là “muối mặn trùng
khơi”.
Đọc nhiều tác phẩm của anh, dù là những dịch phẩm như “Thiền Luận”, những bình phẩm như “Thập Mục Ngưu Đồ”, những triết luận như
“Triết Học Về Tánh Không”, “Thắng Man Giảng Luận” hay đơn giản chỉ
là những bài viết như lời tựa cuốn “Vô
Môn Quan”, “Giới thiệu Duy-ma-cật”…, tất cả đều toát lên chất tài hoa ngất
trời thơ mộng và sâu thẳm, cuồn cuộn như thác ngầm dưới đáy đại dương. Ở đó, chỉ
có những con người biết sống và dám sống mới đủ sức tấu lên cho đời khúc điệu
vô thanh bằng hơi thở của đất trời và hơi thở của chính con người hòa quyện.
Nhưng văn chương chỉ là những âm ba gờn gợn trên mặt nước trầm bình của dòng
sông tâm thức. Chỉ có thơ mới là tiếng nói đích thực của cung bậc vô thanh. Và “Giấc mơ Trường Sơn” trở thành khoảng lặng
tuyệt trù đủ sức làm nền cho cả một thế hệ thi ca.
“Đá
mòn phơi nẻo tà dương
Nằm
nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi
Ngàn
năm vang một nỗi đời
Gió
đưa cuộc lữ lên lời viễn phương
Đan
sa rã mộng phi thường
Đào
tiên trụi lá bên đường tử sinh”.
(Mộng trường sinh)
Từ khi “cuộc lữ
lên lời viễn phương”, là lúc mà thi nhân phải chấp nhận nghiệp dĩ. Giữa
bình sinh hãn hữu, nắng đã tắt trên màu ngói nâu non, ánh chiều vàng vọt của
Đông Phương đang nhường chỗ cho đêm trường cô tịch. Nghiệp dĩ đọa đày con người
phải đối diện với hư vô ngát lạnh. Nắm hư vô trong lòng bàn tay, hư vô và hủy
diệt. Chấp nhận ư? Không! Hiện sinh không còn ý nghĩa ban sơ của nó. Túy sinh mộng
tử đang và đã trở thành chân dung thế kỷ. Người nghệ sĩ lên đường, giữa bao hãi
hùng tang tóc, cát bụi vẫn là cát bụi. Nhưng cát bụi cũng thiên di cho hết một
vòng định mệnh, trọn một nỗi giữa đá sỏi phù du. Hỡi Nữ vương của thiên trù tịch
mịch!
“Tôi
sứ giả hư vô
Xin
gởi trong đôi mắt bà
Một
hạt cát”.
(Hạt cát)
Và cứ thế anh đi
“Đi
để nhớ những chiều pha tóc trắng
Mắt
lưng chừng trong giọt máu phiêu lưu”.
(Cánh chim trời)
Cũng như Tô Đông Pha với những phương trời viễn mộng.
Lô sơn không dành cho những kẻ an phận thủ thường. Tráng sĩ Kinh Kha thưở nào vẫn
lên đường thơ mộng, nghềnh thác chập chùng quyến rũ tráng sĩ rồi sao? Cô đơn có
phải là cố quận của những tâm hồn khát khao tuyệt đối, mà hung hiểm vẫn không sờn
lòng kẻ lữ thứ mù tăm? Bóng tri âm mất dấu giữa đêm rằm, tình đồng điệu âm thầm
không tiếng gọi:
“Một
bước đường thôi nhưng núi cao
Trời
ơi mây trắng đọng phương nào
Đò
ngang neo bến đầy sương sớm
Cạn
hết ân tình, nước lạnh sao?”
(Tống biệt hành)
Không phải chỉ mình anh lạc loài dặm lữ, nhưng cuộc
lên đường đâu dễ mộng song đôi. Non nước bồi hồi vẫn mong manh tơ nắng, chỉ
mình anh hát khúc độc hành:
“Bóc
quá khứ, thiên thần kinh ngạc;
Cắn
vô biên trái mộng vỡ đôi
…………………………………
Ta
đi tìm trái tim đã vỡ;
Đói
thời gian ta gặm hư vô.”
(Mộng ngày)
Nếu không có những giấc mơ Trường Sơn, liệu kẻ độc
hành có chịu đựng nỗi những thăng trầm bí tích? Câu hỏi đặt ra thừa thãi phải
không anh? Cuộc trăm năm ai biết được đâu nào? Một mảnh trăng cuối rừng, thoáng
mây trời bữa nọ, đủ để no say rồi ca hát tưng bừng. Anh hiện hữu nơi đâu? Tháng
ngày nào nhập cuộc? Thời gian chỉ là khái niệm mơ hồ giữa dòng sinh mệnh, chỉ
có niềm tin là mãnh liệt thắp sáng đôi bờ sanh diệt phương phiêu:
“Trưa
dài lắm ta luân hồi vô thủy
Đổi
hình hài con mắt vẫn đầy sao”.
(Tiếng nhọc vọng)
Hay:
“Khi
tâm tư chưa là gỗ mục
Lòng
đất đen còn giọt máu xanh ngời”.
(Ngồi giữa tha ma)
Có lúc tưởng chừng hạt cát mất hút giữa trùng khơi.
Nhưng dẫu có biền biệt phương trời nắng lạ, thì đất tổ quê cha cũng mấy ngàn
năm sử lịch, quá khứ sẽ lên màu cho tình tự mở phơi. Hồn thiên cổ quyện vào
trang sách mới, dấu cũ đi về vẫn một cõi quê chung. Có lúc thi nhân đưa tay sờ
soạng tìm mình giữa đỉnh tuyết mông lung:
“Viên
đá cuội mấy nghìn năm cô quạnh
Hồn
tôi đâu trong dấu tích hoang đường?”
(Dạ khúc)
Sóng cứ vỗ bạc đầu, “người đầu bạc đi giữa lớp sóng bạc” (Bạch đầu lãng lý bạch đầu
nhân – Đỗ Phủ). Cũng như người cha tóc trắng của thi ca Việt Nam – Nguyễn Du,
anh thường nói đến mái đầu tóc bạc, bạc đầu từ thưở đôi mươi, tóc trắng hoa râm
cả trang đời trang mộng. Trang thơ bỗng trầm xuống cõi vô thường một cảm thức
khôn khuây:
“Một
đêm thôi mắt trầm sâu đáy biển
Hai
bàn tay khói phủ tóc tơ xa
Miền
đất đó trăng đã gầy vĩnh viễn
Từ
vu vơ bên giấc ngủ mơ hồ.
Một
lần định như sao ngàn đã định
Lại
một lần nông nổi vết sa cơ”.
(Hoài niệm)
Ai biết được giữa bao kỳ hoa dị thảo của lối mộng điệp
trùng, bước chân người đã bao lần rướm máu. Hình hài và tâm não bao phen se thắt
lại trước “chiếc cầu độc mộc bắt ngang
qua nghềnh sanh tử”. Sa mạc lớn dần thâu ngắn tấc bóng bình sinh. “Anh chiến đấu nhọc nhằn như cỏ dại” (Ác
mộng). Ngữ ngôn không còn là vũ khí, điển cú chẳng đập vỡ được thành sầu:
“Từ
núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh
đá này và hạt muối đó chưa tan”
(Khung trời
cũ)
Từ dạo biết buồn câu sanh tử, câu hỏi ngàn đời vẫn bức
bách người trong mộng. Thận phận, hình hài và nỗi khát khao vô biên:
“Ba
mươi tuổi đời chui qua lỗ cống
Chân
trời xanh phía trước hay phía sau
Ngày
tiếp ngày khóc cười như ngủ mộng
Thị
da gầy từng sợi trả về đâu”
(Ba
mươi tuổi)
Mười năm, hai mươi năm, từ thưở mẹ cha cho hình hài ấm
lạnh, đến bây giờ thi nhân giật mình nhìn lại:
“Tóc
huyền loạn cả nguyên tiêu
Lãng
du ai ngỡ cô liêu bạc đầu”.
(Tóc huyền)
Ra đi là một cuộc trở về. “Ném vào chỗ mất lại còn, đi vào chỗ chết lại sống” (Lão tử), tuyệt
hậu tái tô. Từ cõi mộng trở về, đôi mắt anh như đóm lửa giữa đêm trường cô tịch,
lấp lánh, ấm nồng cả một trời thơ. Bóng anh lồng lộng bước xuống mép rìa thực tại,
dẫu ngang tàng khí phách mà vẫn thân thương gần gũi lạ thường. Đã qua chưa nỗi
đoạn trường dâu bể? Anh cười:
“Năm
tháng vẫn như nụ cười trong mộng”
(Mưa cao
nguyên)
Như trên đã nói, thơ Tuệ Sỹ có thể tiêu biểu cho cả một
thế hệ thi ca! Lời này có quá đáng chăng? Lịch sử văn học Việt Nam đã chứng kiến
một chòm sao băng xuống giữa sương ngàn cỏ nội quê hương thời Tiền chiến: Thế Lữ,
Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử…, tất cả họ đều nhờ
thơ mà nổi tiếng. Đến giai đoạn thăng trầm nhất của lịch sử dân tộc, thơ ca nhường
chỗ cho khói lửa điêu tàn cùng bao ý thức hệ tung hoành. Trước 1975, Sài Gòn
xôn xao về “An Nam tứ kiệt”: Bùi
Giáng, Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát. Tên tuổi của họ đi trước thơ. Nói
một cách dễ hiểu, người ta biết đến họ không phải qua thơ. Nhưng ai dám nói thơ
họ không bằng Tiền chiến? Tôi không muốn so sánh họ với những thi nhân Tiền chiến,
bởi ở thời đại của họ, người thơ “nức nở
lệ lên đường” (Bùi Giáng). Ý thức mới cùng tiếng gọi Hiện sinh réo ầm vang
tuổi trẻ, đâu còn cảnh ôm bầu rượu nâng đàn mơ tưởng chốn Thiên thai giữa quê mẹ
thanh bình ươm điệu sống. Nhưng con cháu của Nguyễn Du vẫn đầy ắp tự tình dân tộc.
Thơ của họ chuyển vào một cung bậc mới, một tiết điệu mới. Bằng thứ nhiệt huyết
ngang tàng của những Van Gohd, Rimbaud, Nerval. Nietzche; bằng cách điệu bi
tráng, của một Tô Thức, một Hồng sơn liệp hộ hay thừa bẩm di sản của Lý Trần,
thơ của họ vẫn đọng lại những chương từ hay nhất thi ca Việt Nam. Vừa đắm say nồng
nàn, vừa trầm thống bi thương, vừa ngang tàng lẫm liệt mà cũng thăm thẳm mù
khơi. Ngôn ngữ thi ca mang sứ mệnh của những công an vườn Thiền, nỗi niềm tơ tưởng
đóng vai trò bổng hát của những pháp đường khai thị. Nhưng giữa thời đại con
người chỉ toàn lợi quyền cơm áo, biết tìm đâu những kẻ tri âm. Can chi, thi ca
vẫn còn thắp sáng niềm tin cho văn nghệ tìm về với cội nguồn sơ thủy, đọc một
đôi dòng của họ:
“Xin
chào nhau giữa con đường
Mùa
xuân phía trước miên trường phía sau”.
(Bùi
Giáng)
“Mưa
chiều thứ Bảy tôi về muộn
Cây
khế đồi cao trổ hết bông”.
(Phạm Công Thiện)
“Giọt
sương đậu mái lương đình
Nửa
đêm thức giấc hỏi mình tan chưa”.
(Phạm Phú Hải)
“Một
mai ta ngủ yên lòng đất
Mưa
có vì ta rót lệ đầy”.
(Trần Xuân Kiêm)
Còn có thể kể thêm một vài tên tuổi, như Nguyễn Đức
Sơn, Trần Đới, Hoài Khanh, Phạm Thiên Thư… Một thế hệ đã hình thành, hương hoa
đang dần lan tỏa, chỉ chờ người đón nhận.
Riêng Tuệ sỹ, thơ cũng chính là người!
Tuệ Sỹ chưa từng có một tập thơ nào xuất bản, nhưng
thơ anh đã được người ta thuộc rất nhiều. Nó chỉ được những tâm hồn đồng điệu
ngâm tràn trên những nẻo đường gió bụi. Có những đêm trăng nơi núi rừng nhóm lửa,
nơi bến bãi đun trà, tôi được nghe những chàng nghệ sĩ chân đất ôm đàn ngâm thơ
anh trong niềm yêu thiết tha, vừa cảm động, vừa thân thương:
“Người
đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng
Kể
chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa
Con
bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng
Nhưng
về đâu một chiếc lá xa mùa”.
(Mưa cao nguyên)
Người yêu thơ chắc khó thể nào cưỡng nổi niềm phấn
khích dâng trào khi nghe những dòng thơ đầy cảm động:
“Đôi
mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo
màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút
vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp
đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn”.
(Khung
trời cũ)
Vậy đó, dường như có một dòng suối từ nào chảy trong
tim anh, chảy xuống cuộc đời máu lệ. Giấc mơ của anh không chỉ gởi cho những
nham thạch kiêu hùng. Anh lặng lẽ đi vào đời bằng chất trữ tình ấm áp, bằng thể
điệu tài hoa. Tôi vẫn còn giữ mãi bài thơ do chính tay anh chép để anh em cùng
ngồi ngâm trong một tối chan hòa:
“Tự
hôm nào suối tóc ngọt lời ca
Tay
em rung trên những phím lụa ngà
Thôi
huyễn tượng xô người theo cát bụi”
(Nhớ dương cầm)
Mỗi người có cách đọc thơ riêng của mình. Thật khó
lòng bình phẩm được loại thơ đầy huyền hoặc như thơ anh. Tôi không muốn, nói
đúng hơn là không dám phân tích thơ anh. Nhưng có rất nhiều tứ thơ tôi vẫn đọc
đi đọc lại, ước ao có dịp được nghe chính anh giải thích. Có lẽ có một ánh nhìn
thấu cả tử sanh trong từng tấc nắng, phải vậy chăng mà ánh mắt yêu người lại khốc
liệt dường kia:
“Nắng
lụa đỏ phủ tường rêu xám bạc
Lá
cây xanh nghiêng xuống mắt mơ màng
Người
có biết mặt trời kia sẽ tắt?
Tôi
yêu người từ vết rạn thời gian”.
(Vết rạn)
“Ngày
mai sư xuống núi
Phố
thị bước đường cùng
Sư
ho trong bóng tối
Điện
Phật trầm mông lung”
(Hạ sơn)
Tôi chỉ biết trích dẫn ra đây thật nhiều những trang lời
lóng lánh. Chuyện phẩm bình do chỗ cảm mà thôi. Cuộc đời nghĩ đáng thương hơn
là đáng chán. Người ta ra đường bịt mặt nhau. Cảm động thay nghĩa tình khôn nói
cạn, mỗi kẻ mỗi đường nhưng mãi vẫn yêu nhau. Xin trích một đoạn trong bài thơ
tôi thích nhất, chắc của anh gửi một bậc thầy, thay cho lời kết của bài cảm từ
qua “Giấc mộng Trường Sơn”:
“Thầy
tóc trắng bơ vơ
Con
mắt xanh đợi chờ
Đèn
khuya cùng lẻ bóng
Khúc
ruột rối đường tơ”.
(Luống cải chân đồi)
Đầu hạ năm Nhâm Ngọ
Nhất
Thanh
Nguồn :
https://m.facebook.com/Thotuesi/photos/a.1489359737994228/1558565461073655/?type=3
Tôi rất quý thiền su Tuệ Sĩ. Cám ơn người viết
Trả lờiXóa