Nguồn:
https://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2017/09/nguoi-viet-nam-au-tien-at-chan-en-chau.html
Học giả Nguyễn Hiến Lê
(1912–1984)
Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm, người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ.
NGƯỜI
VIỆT NAM ĐẦU TIÊN ĐẶT CHÂN ĐẾN CHÂU MỸ Nguyễn Hiến Lê
Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh
Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú
Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị
một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng
báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn
ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.
Trần Trọng Khiêm (1821-1866)
Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung
Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau
đó, ông trở về thành phố Xanh–Phát–Lan–Xích–Cố (phiên âm của San Francisco) và
làm kí giả cho tờ Daily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê
Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.
Trong cuốn sách La Ruée Vers L’or của tác giả Rene
Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những
người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở
thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Louisiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp
thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.
Tuy không phải sứ giả, nhưng Lê Kim đến Hoa Kỳ trước Bùi Viện 20 năm
Thời đó, “Wild West” (miền Tây hoang dã) là từ ngữ người
Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ,
núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi
miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người
Canada tên là Mark lập nên.
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải
góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực
và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh
Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm
liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng
Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng
ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam nhưng không cần dùng đến. Lê Kim
nói ông không phải người Hoa nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.
Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua
núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng
thời đó là “Oh! Suzannah” (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào
vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc). Họ
thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến
California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên
trong đoàn.
Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử
đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm,
khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc
đường đi.
Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê
Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn
đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại
ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như
tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily
Evening.
Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm
họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực
San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng
mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng các mỏ
vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện
vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày
8.11.1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ
John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San
Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều.
Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu
để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh
200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San
Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo
lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Ở
Hoa Kỳ, Lê Kim vừa tìm vàng, vừa làm nhà báo và được một nhà văn viết trong cuốn
“Đổ xô đi tìm vàng”.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn
và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã
tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của
mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và
cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.
Người Minh Hương cầm quân chống Pháp
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới
cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy
thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có
công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại
đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con
trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương.
Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau
đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.
Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột
Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình
hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những
ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường.
Khi người anh nhắn lại: “Gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở
về”, Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.
Di tích làng Xuân Lũng – quê gốc Lê Kim
Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi Pháp xâm lược Việt Nam.
Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ
Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài
bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm
xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết
không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có
ghi lại lời trăng trối của ông: “Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá
gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng
ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa
tròn ngũ tuần”. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi
câu đối: “Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/Chính
khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.
Ghi công ông, hiện ở phường Long Bình, quận 9, Thành
phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm nối phố Nguyễn Xiển với
phố Mạc Hiển Tích.
Cuộc đời bi hùng của ông (Lê Kim) đã được nhà văn Pháp
René Lefebre viết thành tiểu thuyết có nhan đề La Ruée vers l'or (Đổ xô tìm
vàng (NXB Dumas, Lyon ,1937) và Nguyễn Hiến Lê viết thành sách nhan đề
"Con đường thiên lý" (viết xong 1972).
----
CHÚ THÍCH :
Nguồn: Theo học giả Nguyễn Hiến Lê trong "Con đường
thiên lý" (viết xong 1972). Đã được NXB Văn Nghệ xuất bản sau 75.
- Wikipedia
- La Rueé vers l'or. René Lefebre.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :
Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ