Nhà bình thơ Phạm Đức Nhì
TRẢ
LỜI BÌNH LUẬN CỦA ANH NGHIÊM ANH CHU
Phạm Đức Nhì
Bình Luận Của Anh Nghiêm Anh Chu
Trong bài viết Bàn Về Chữ “Buông” Của Trịnh Công Sơn Trong “Để Gió Cuốn Đi” của tôi anh Nghiêm Anh Chu có bình luận như sau:
Nhạc, nhất là nhạc VN, nó cũng như tình yêu. Ta chỉ có
thể cảm nhận được mà ko thể lí giải được.
Trên
trời có đám mây xanh
Có
con ngựa bạch chạy quanh gầm trời
Đôi
ta muốn lấy nhau chơi
Cái
duyên ko buộc thì trời chẳng xe
Mà
cái duyên đã buộc thì trời xe ngay vào...
Quan họ Bắc Ninh hay chèo Bắc Bộ, Lí Nam Trung Bộ là một
thứ nước Cam Lồ, một thứ rượu thần tiên mê hoặc say đắm lòng người biết bao thế
hệ.
Bài bình của giáo sư Phạm Anh Nhì rất hay, nhưng sẽ
gây tự ái cho cả triệu người ngưỡng mộ Trịnh Công Sơn. Thôi thì cứ để gió cuốn
đi thôi thầy ạ
Cám ơn anh Nghiêm Anh Chu đã có một bình luận “biết người biết ta” cho bài Bàn Về
Chữ “Buông” Của Trịnh Công Sơn Trong “Để Gió Cuốn Đi” của tôi.
Trước hết, xin được cải chính. Tôi chẳng phải giáo sư,
giáo xiếc gì cả. Chỉ là người có học chút đỉnh về thơ, về nhạc. Nhưng sau này
nghĩ rằng “nhất nghệ tinh, nhất thân
vinh” nên đã bỏ nhạc để chỉ chuyên về thơ. Và tôi là Phạm Đức Nhì – không
phải Phạm Anh Nhì.
Nhạc
Và Sự “Tiêu Hóa” Của Người Thưởng Thức
Đúng như anh Nghiêm Anh Chu nói, nhạc đi thẳng vào tâm
hồn, không qua “gạn đục khơi trong” của
lý trí. Nhưng đó là loại nhạc không lời.
Ca khúc là một cuộc hôn nhân giữa Nhạc và Lời. Dòng nhạc
chảy cuốn lời theo dòng chảy của nó. Người thưởng thức ca khúc nghe nhạc và lời
cùng một lúc, nhưng nhạc thì đi thẳng vào tâm hồn, còn lời thì vẫn bị lý trí kiểm
soát. Có điều nó chạy nhanh chứ không lững lờ như lời thơ nên lý trí kiểm soát
không kịp, đôi khi bị sót. Nếu có những “bất
ổn” nho nhỏ ở phần lời thì thường được cho “qua phà”. Người nghe ca khúc thường dễ dãi với những “tiểu tiết” trong lời nhạc.
Tuy nhiên nếu là lỗi nặng, làm cấu trúc của phần lời xộc
xệch, cản dòng chảy của cảm xúc thì dễ bị những người tinh ý phát hiện. Dĩ
nhiên, khi nghe ca sĩ hát tôi cũng thả hồn vào lời ca tiếng nhạc để “sướng” chung cái sướng của mọi người.
Nhưng khi về nhà, ngôi phân tích giá trị nghệ thuật – cái hay cái dở - của bản
nhạc tôi bắt buộc phải giở trò “chẻ sợi
tóc làm tư”.
“Ca
Khúc Và Thơ” Của Nguyễn Hưng Quốc
Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc trong bài Ca
Khúc Và Thơ đã viết:
“Trong
bài “Cái chết của một nghệ sĩ”, tôi có viết là tôi không thích nghe nhạc, nhất
là ca khúc. Tại sao?”
Và sau khi kể lể một hồi, ông giải thích:
“Lý
do chính, tôi nghĩ, nằm ở chỗ này: Nghe ca khúc, vì dốt về nhạc học, tôi không
chú ý nhiều đến khía cạnh âm nhạc, tôi chỉ tập trung nghe lời. Mà lời trong các
ca khúc thì theo tôi, thường… dở.”
https://www.voatiengviet.com/a/ca-khuc-va-tho/1593263.html
Có nhiều điều có thể bàn luận về nhận xét trên của nhà
phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc. Trong bài viết ngắn này tôi chỉ chú trọng một
điểm: Nghe nhạc, không chú ý đến nhạc mà chỉ tập trung nghe lời.
Khi cao hứng, cả lời và nhạc tuôn ra cùng một lúc hoặc
khi đặt lời cho “dòng nhạc” nghĩ ra từ
trước, nhạc sĩ không cần quan tâm đến tính nhạc vì đã có “dòng nhạc” làm con kênh để lời theo đó mà trôi. Do đó, nếu không
chú ý đến khía cạnh âm nhạc mà chỉ tập trung nghe lời thì lời của ca khúc tự nó
thường thiếu tính nhạc, thiếu “vị ngọt của
thơ”, thiếu thứ “thuốc dẫn” để nối
những hình tượng, ý tưởng, tạo dòng chảy cho tứ thơ.
Cũng may là không phải ai cũng nghe nhạc (ca khúc) như
ông Nguyễn Hưng Quốc chứ nghe nhạc kiểu đó chẳng sớm thì muộn các nhạc sĩ cũng
sẽ đập đàn, bỏ sáng tác để tìm nghề khác.
Anh
Nghiêm Anh Chu Thì Khác
Trường hợp của anh Nghiêm Anh Chu thì ngược lại. Có lẽ
anh đã thấy được và đem lòng yêu thích cái cao sang, đài các, sự ảo diệu của ca
từ trong Để Gió Cuốn Đi nói riêng và của nhạc Trịnh Công Sơn nói chung. Theo
tôi, anh cũng “bắt” được phần nào cái
sâu sắc, tính nhân bản trong ý tứ của bản nhạc. Có điều anh chưa thấy được cái
xộc xệch của thế trận chữ nghĩa. Anh cũng không để ý đến sự hiện diện khá rõ
ràng của lý trí trong phần lời của bản nhạc. Đối với những người thưởng thức nhạc
bình thường thì như thế cũng là … đủ.
Nhưng khi đã bước vào cuộc tranh luận về cái hay, cái
dở, khi đã bàn đến giá trị nghệ thuật của tác phẩm (như bài viết Bàn Về Chữ “Buông” …) thì không thể hời hợt, dễ
dãi, “chín bỏ làm mười” như thế được.
Anh Nghiêm Anh Chu cho rằng viết như tôi (Phạm Đức
Nhì) thì “rất hay, nhưng sẽ gây tự ái cho
cả triệu người ngưỡng mộ Trịnh Công Sơn.”
Tôi không nghĩ như vậy. Khi yêu thì cái gì của người
yêu cũng đẹp. Nhưng thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật thì không nên như thế.
Đem
Bản Nhạc “Chờ Đông” Làm Thí Dụ
Chờ Đông của nhạc sĩ Ngân Giang được sáng tác năm 1969
ở Miền Nam. Đây là bản nhạc được rất nhiều ca sĩ hát trong các chương trình văn
nghệ - đặc biệt là đám cưới. Nó không phải là Nhạc Sến nhưng cũng chưa tới mức
Cao Sang như một số ca khúc của Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Cung Tiến …
CHỜ ĐÔNG
Em
ơi! có phải ngoài trời đang mưa ??
Em
ơi! có phải trời đã sang đông ??
Mùa
đông giá băng anh đang chờ
Mùa
đông ái ân anh đang tìm
Tìm
màu áo cưới cho em....
Ô
hay, mắt ngọc lại buồn hay sao??
Khi
anh đã nguyện một đời yêu em
Dù
cho nét son môi phai mờ
Dù
cho mắt xanh kia hững hờ
Và
dù năm tháng phôi pha.
ĐK:
Ta
quen biết nhau ... Khi tàn xuân
Ta
yêu thiết tha ... Khi hè sang
Và
khi thu đến anh gom ánh sao
Cho
đêm đêm kết thành vương miện
Để
mùa đông đám cưới đôi mình
Em
ơi! xích lại thật gần bên anh..
Cho
anh xiết chặt nụ cười xinh xinh
Từ
đây những đêm trăng thanh đầy
Mình
không lẻ loi không u sầu
Nguyện
cầu ta mãi bên nhau
(lyric.tkaraoke.com)
Theo tôi, đây là một ca khúc trên trung bình. Nhạc
hay, lời bình dị, nhiều tình cảm, rất có duyên, bố cục lạ mà hợp lý. Và đặc biệt,
lời và nhạc hòa quyện với nhau như đôi vợ chồng gắn bó yêu thương.
Hai
Lỗi Nặng
Tôi xin bỏ qua một vài “tiểu tiết” để chỉ nói đến 2 lỗi nặng, ảnh hưởng đến dòng cảm xúc của
lời ca, tiếng nhạc.
1/ Hai chữ “hững
hờ” trong đoạn
Ô
hay, mắt ngọc lại buồn hay sao??
Khi
anh đã nguyện một đời yêu em
Dù
cho nét son môi phai mờ
Dù
cho mắt xanh kia hững hờ
Và
dù năm tháng phôi pha.
a/
Khi chồng của TTKh. biết chị vẫn ôm ấp bóng hình của
người tình xưa thì với ông, đời sống vợ chồng của hai người đã đi vào ngõ cụt,
chỉ tồn tại để giữ thể diện trên mặt lễ giáo, xã hội, còn tình cảm thì coi như
đã chết. Ông đã lạnh nhạt đến mức bà phải “bóp
tim” trào ra mấy câu thơ:
Từ
đó thu rồi thu lại thu,
Lòng
tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng
tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người
ấy cho nên vẫn hững hờ!
“Hững
hờ”
ở đây có nghĩa là tình yêu đã hết.
b/
Sau đây là tâm sự của một người có gia đình, vợ con
đàng hoàng nhưng bà vợ, không biết vì lý do gì, đã không còn tình yêu. Anh ta,
giống ông chồng của TTKh. ở chỗ vẫn để cuộc hôn nhân tồn tại nhưng đã đem hai
chữ “hững hờ” vào sinh hoạt vợ chồng.
KHI KHÔNG CÒN TÌNH YÊU
Vợ
con đàng hoàng
chẳng
lẽ cặp kè bồ bịch linh tinh
lỡ
đổ bể
người
đời chửi “Đồ ngoại tình!”
mang
tai tiếng
Mấy
chục năm
Là
“công dân tốt” trên đất Mỹ
chẳng
lẽ bây giờ
vác
“đồ nghề” đi kiếm đĩ
vừa
sợ cảnh sát vồ
vừa
nơm nớp bệnh Si Đa
Cho
nên thỉnh thoảng cũng đè ra
Máy
mó đâm chọc cho qua
cơn
động cỡn.
(Dấu Tên)
Nhạc sĩ Ngân Giang đã không lường hết được sức mạnh của
hai chữ “hững hờ” nên đã làm hỏng đoạn
nhạc.
2/
Hai câu áp chót của đoạn cuối:
“Từ
đây những đêm trăng thanh đầy
Mình
không lẻ loi không u sầu”
Người ta sẽ hỏi “Thế
còn những đêm trăng không đầy hoặc không có trăng thì sao?” Chẳng lẽ vói
đôi tình nhân sắp đến ngày cưới mà “từ đây” (từ nay về sau) cả tháng chỉ “không lẻ loi, không u sầu” có hai đêm “trăng thanh đầy”, những đêm còn lại thì
mỗi đứa một nơi? Tác giả viết không kín kẽ, không thấy được lỗ hổng to tướng
trong câu nhạc của mình.
Uy lực của nhạc rất lớn. Nó có khả năng cuốn lời ca
vào thẳng tâm hồn không qua sự kiểm soát (chặt chẽ) của lý trí. Bởi vậy, nó là
con dao 2 lưỡi. Người nghe dễ xúc động, đồng cảm với ca sĩ, nhạc sĩ nhưng cũng
thường để lọt vào đầu mình những cặn bẩn của văn chương. Ca khúc Chờ Đông được
hát ở hải ngoại và trong nước nhiều năm nay nhưng 2 lỗi nặng như trên vẫn bị lờ
đi.
Người thưởng thức nhạc nếu không cẩn thận lựa lọc,
nghe mỗi bản nhạc lại đưa vào chỗ sâu kín nhất trong tâm hồn mình một vài cộng
rác. Lâu ngày sẽ thành một đống rác lớn.
Kết
Luận
Để kết luận tôi xin mượn một đoạn văn đã viết từ khá
lâu trong một bài bình thơ:
“Một
lần tôi tình cờ ngồi gần một bà cụ trong lúc ăn bánh xèo ở chợ An Đông. Bà cụ
trải một lá rau xà lách xuống đĩa; trên lá rau nằm chình ình một con sâu to bằng
nửa ngón tay út. Tôi chưa kịp phản ứng thì bà cụ đã thản nhiên xé một miếng
bánh xèo đặt lên lá rau rồi cuộn lại, chấm nước mắm cắn ăn ngon lành, vừa nhồm
nhoàm nhai vừa gật gù ra vẻ khoái trá.
Trên
đường về tôi cứ áy náy mãi vì sự thiếu quyết đoán và tính cả nể của mình. Tôi sợ
nếu lên tiếng đánh động sự có mặt của con sâu sẽ làm hỏng bữa ăn ngon của bà cụ
và…mất lòng chủ quán. Nhưng nếu cứ ngồi yên để mặc bà cụ vừa nhai con sâu vừa
khen ngon thì có vẻ …hiểm ác quá. Hơn nữa, việc chỉ cho bà cụ (và mọi người) thấy
con sâu sẽ khiến chủ quán cẩn thận hơn trong những lần rửa rau sau đó, và khách
ăn hàng, nếu còn quyến luyến, sẽ để ý đến lá rau kỹ hơn trước khi cuốn bánh
xèo.”
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
CUỘC TRAO ĐỔI THÊM GIỮA NGHIÊM ANH CHU VÀ PHẠM ĐỨC NHÌ :
Trả lờiXóaNghiêm Anh Chu:
Thành thật xin lỗi anh Phạm Đức Nhì vì tôi đã viết sai tên lót của anh.
Như tôi đã nói, do lăn lộn quá dài theo cuộc chiến, do lí lịch gia đình địa chủ, do thương tật chiến tranh nên tôi không được học đến nơi đến chốn. Tôi chỉ đáng là học trò của anh Phạm Đức Nhì thôi ạ. Cho nên, việc tranh luận với anh là không thể, thậm chí phạm thượng.
Ở VN, những người kiến văn, hiểu văn đến mức uyên thâm và uyên bác được như anh Phạm Đức Nhì quả không nhiều. Tôi tâm đắc và kính phục anh khi anh bình bài thơ" Lương châu từ" của Vương Hàn, bài "Say đi em" của Vũ Hoàng Chương", bài "Tạ lỗi với Trường sơn" của Đỗ Trung Quân. Bình được như thế thì ở VN chưa có ai làm được.
Trần Dần, nhất là sau này, Nguyễn Đăng Mạnh dám phê phán Tố Hữu quyết liệt nhưng kém phần trí tuệ. Paul Nguyễn Hoàng Đức dám nã đại bác vào nền Văn Chương mậu dịch VN. Thật đáng kính. Nhưng anh Đức gần như xóa bỏ hết cả nền Văn Chương ấy mà không gạn đục khơi trong lấy những gì được xem là tích cực. Hơn nữa, anh Đức thiên về triết học Kito giáo, điều đó khó thuyết phục khi mà VN già nửa thế kỷ chống duy tâm bao hàm cả chống tôn giáo.
Xin nói ngay rằng tôi không thích nhạc TCS. Nó èo uột quá. Yếm thế quá. Nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ và những người làm công tác nghệ thuật cần phải có khí phách. Rên rỉ âu sầu tuy ve vuốt được nỗi đau, ru ngủ được những tâm hồn giá lạnh, nhưng nó chẳng rèn đúc cho con người ta được chút ý chí nào.
Ngày nay văn học và nghệ thuật VN đang xuống cấp trầm trọng. Nói gì thì nói, trách nhiệm trước hết ở thượng tầng kiến trúc, sau nữa là những ông thầy coi lí tưởng CS là Mặt Trời, coi lí lịch công nông là tất cả, mà che lấp đi mọi yếu kém, thậm trí là mọi sai trái đến mức thấp hèn, ác độc trong quá trình cách mạng.
Ước gì VN có được những thầy giáo dạy văn tài giỏi như thầy Phạm Đức Nhì.
Xin cảm ơn anh Phạm Đức Nhì nhiều lắm ạ.
Phạm Đức Nhì:
Cám ơn bình luận có phần ưu ái của anh về tôi. Khác anh ở chỗ tôi thích khu vườn văn học nghệ thuật nên rộng mở, chứ mỗi thi sĩ, nhạc sĩ đều khí phách, oai phong như chiến sĩ thì có khi cũng chán lắm. Tôi quý anh ở cái tâm.
Nghiêm Anh Chu:
Mọi người bình luận thì được mà bình luận của tôi bị chặn mất rồi.
Bài viết của anh Phạm Đức Nhì hay lắm ạ. Ước gì anh bình mấy bài "Bài Ca Sông Dịch" của Vũ Hoàng Chương, "Hận Chinh Phu" của Hồ Dzếnh, "Hành Phương Nam" của Nguyễn Bính thì độc giả VN cảm ơn nhiều lắm ạ.
Cảm ơn anh rất nhiều.
Phạm Đức Nhì:
Ghi nhận ý kiến của anh. Nhưng tôi bình thơ tùy hứng, không theo yêu cầu.