NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐỒNG TÍNH
(Trích
trong ĐIỀM YẾU CỦA NGƯỜI ĐÀN ÔNG MẠNH MẼ
của
Đặng Xuân Xuyến ; Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin ; 2006)
Từ lúc cất tiếng khóc chào đời, những bé trai
đã được bố mẹ và gia đình rèn rũa, dạy bảo theo khuôn mẫu văn hóa
truyền thống: Cương cường, dũng mãnh, lạnh lùng và quyết đoán. Có
nghĩa, là đàn ông thì không được “bám
váy” mẹ, không được “yếu đuối”,
không được khuất phục trước bất kỳ khó khăn, trở ngại nào. Văn hóa
truyền thống không chấp nhận quan điểm của các nhà tâm lý học hiện
đại, như Elisabeth Badinter chẳng hạn, thừa nhận: “Giới tính nữ là giới tính cơ bản. Người nam được hình thành
bằng sự đấu tranh với tính nữ nguyên thủy ngay từ khi còn trong bào
thai. Vì giới tính nữ là giới tính cơ bản nên trong người đàn ông
vừa có tính nam vừa có tính nữ. Muốn phát triển thành người đàn
ông là một cuộc đấu tranh không ngừng ở mọi lúc.”. Trong những
tác phẩm của mình, (đúng hơn là những công trình nghiên cứu khoa học)
bà đã đưa ra những phác thảo về khuôn mẫu người đàn ông trong thế kỷ
XXI đối lập khá nhiều với những gì mà văn hóa truyền thống đã khắc
họa.
Nghiên cứu về người đồng tính, các nhà tâm lý
kết luận: Đời sống tình cảm của người đồng tính nam thường chịu
ảnh hưởng sâu sắc từ người mẹ và mang nhiều tính nữ. Còn người
đồng tính nữ thường chịu ảnh hưởng sâu sắc từ người bố và mang
nhiều tính nam. Đây chính là điểm cơ bản đầu tiên của người đàn ông
đồng tính.
Chúng ta đều biết, sự hình thành và phát
triển tính nam của người đàn ông không chỉ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
từ văn hóa truyền thống với những chuẩn tắc khắc nghiệt mà còn
chịu sự chi phối sâu sắc của huyền thoại tình mẫu tử. Sự đối đầu
giữa khuôn mẫu người đàn ông truyền thống với huyền thoại tình mẫu
tử, trong nhiều trường hợp đã làm méo mó, biến dạng tâm sinh lý và
giới tính của người đàn ông khi trưởng thành. Thuyết bản năng mẫu
tử, hay còn gọi huyền thoại tình mẫu tử, đã “hợp thức hóa việc loại trừ người cha”, “tăng cường sự
cộng sinh giữa mẹ và con trai”, làm cho tính nữ nguyên sơ trong bé trai
bị kéo dài, dẫn tới sự phát triển lệch lạc về tâm sinh lý và giới
tính, cản trở và triệt tiêu tính nam của người đàn ông đang hình
thành trong đứa trẻ. Chính vì vậy mà người Anh, một thời gian khá
dài đã phản đối gay gắt sự “độc
nhất” của người mẹ trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng bé trai.
Elisabeth Badinter, giảng viên triết học trường Polytenchnique (Pháp)
nhấn mạnh: Lý thuyết bản năng mẫu tử đã gây tha hóa và tội lỗi đối
với phụ nữ và tỏ ra tàn hại đối với trẻ nhỏ, đặc biệt đối với trẻ
em trai. Qua nghiên cứu nhiều công trình khoa học và các tác phẩm văn
học (trên 3.000 tác phẩm văn học và thân thế các danh nhân nổi tiếng),
bà đưa ra kết luận: Trong số những người đàn ông đồng tính, rất
nhiều người sống gần gũi với mẹ và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ
người mẹ. Bà khuyến cáo: Hãy để bé trai thường xuyên gần gũi và
chịu ảnh hưởng từ người bố, sẽ giúp bé trai thuận lợi cho việc
phát triển tâm sinh lý người đàn ông của đứa trẻ.
Trong các công trình nghiên cứu về tính nam của
người đàn ông, Giáo sư Elisabeth Badinter đều cảnh báo sự thái quá
trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng bé trai của các bà mẹ sẽ ảnh hưởng
xấu đến sự hình thành và phát triển tính cách người đàn ông của
bé trai sau này. Tất nhiên, sự “độc
chiếm yêu thương” bé trai của các bà mẹ - như chúng tôi đã trình
bày trong mục NGƯỜI ĐÀN ÔNG TRẺ CON - không thể hoán đổi bé trai từ
người dị tính sang là người đồng tính mà chỉ là một trong những căn
nguyên “mở đường” cho sự phát
triển từ khuynh hướng tình dục đồng tính sang hành động đồng tính ở
các bé trai. Đây là điều mà các bà mẹ cần lưu tâm khi chăm sóc và
nuôi dưỡng bé trai yêu quý của mình.
Kensey, bác sỹ người Mỹ, qua những cuộc điều
tra xã hội học cho rằng: Cứ 3 người đàn ông Mỹ thì ít nhất 1 người
đã từng có “trải nghiệm” quan
hệ luyến ái đồng giới. Còn người Anh thì “rất nhiều” người là dân đồng tính.
Luận điểm của Kensey khá gần với kết luận của
Giáo sư Elisabeth Badinter về lý do tại sao người Anh lên án thuyết bản
năng mẫu tử, nhưng tỷ lệ người đồng tính và quan điểm khuyến khích
“phát triển đồng tính” mà bác sỹ Kensey đưa ra thì không thể chấp
nhận. Tuy nhiên, kết quả Kensey đưa ra đáng để chúng ta suy ngẫm về
hiện tượng những chú “gà cồ”
không thể cất tiếng gáy đang có xu hướng gia tăng trong xã hội hiện
đại.
Theo thống kê của các nhà khoa học thì trên thế
giới thì tỷ lệ người đồng tính chiếm khoảng 3 - 5 % dân số nhưng số
liệu đó chưa hẳn đã chính xác. Kết quả phát hiện điều tra uy quyền
của Mỹ lại cho con số hoàn toàn khác về đồng tính nam: 35% thuần
khiết yêu người khác giới, 55% đã trải nghiệm đồng tính luyến ái,
số còn lại hoặc là đồng tính luyến ái hoàn toàn hoặc là lưỡng
tính luyến ái. (Tâm sinh lý nam nữ; trang 296; Ma Xlao Lian; Nhà xuất
bản Hà Nội; 2004; Thùy Liên dịch). Còn giới nữ thì sao? Kết quả
điều tra của Kinxi và Hăngri cho biết: “-
Có khoảng 12% phụ nữ thực sự đồng tính luyến ái hoặc tỏ rõ mong
muốn được đồng tính luyến ái.” (Tâm sinh nữ phụ nữ; trang 488;
Vương Quốc Vượng; Nhà xuất bản Hải Phòng; 2003; Hà Kim Sinh dịch.).
Gần đây, các nhà khoa học về tâm lý và tình
dục trên thế giới đã công bố kết quả điều tra (độ tuổi từ 15 tuổi
trở lên) ở thành phố San Francisco (Hoa Kỳ) thì người đồng tính nam ở
đây có tỷ lệ cao nhất thế giới, khoảng 20% dân số (nam giới) của
thành phố. (Theo báo Thanh Niên số 100 (3761), ra ngày 10/04/2006 và báo
Công an thành phố Hồ Chí Minh số 1422, ra ngày 11/04/2006). Như vậy, tỷ
lệ người đồng tính (nam) đang gia tăng ở mức báo động.
Các nhà tâm lý tình dục học nhấn mạnh: Điểm
chung của người đồng tính là sự “mặc
cảm tội lỗi”, tâm lý hoảng loạn, dễ bị tổn thương. Do “không
giống ai” trong việc lựa chọn “đối tượng tình dục” và tình yêu của
họ không được xã hội chấp nhận nên người đồng tính luôn sống trong
tâm trạng mặc cảm, sợ sệt. Với người dị tính (tình yêu thuần khiết
với người khác giới), sự thể hiện tình cảm của mình với “đối tượng” thường công khai, được
xã hội chấp nhận (trong một chừng mực, hoàn cảnh nhất định), còn
người đồng tính thì ngược lại: Âm thầm, lén lút vì sự kỳ thị của
xã hội. Đây chính là lý do làm người đồng tính dễ bị tổn thương,
luôn sống trong tâm trạng hoảng loạn và “mặc cảm tội lỗi”.
Một điểm chung nữa thường thấy ở người đồng
tính là: Không ai dám “tự thú”
mình là người đồng tính, trừ phi họ là người đồng tính ở cấp độ
“nặng” không thể giấu được, hoặc họ dũng cảm công bố khuynh hướng
tình dục của mình để được sống thanh thản, thoải mái hơn. Ngay cả
những người đồng tính với nhau, nhất là những người thuộc diện đồng
tính kín, còn gọi là đồng tính “ẩn”,
dù “đọc” ra “chất” của nhau cũng khó khăn trong việc họ thừa nhận mình
là người đồng tính. Văn hóa truyền thống, nhất là nền văn hóa Á
Đông đã gây áp lực rất lớn, buộc người đồng tính ở mọi cấp độ
phải giấu đi giới tính thực của mình, để đáp ứng những “chuẩn mực” của xã hội: Xây dựng gia
đình, sinh con đẻ cái...
Văn hóa truyền thống, cộng với sức ép của
cuộc sống cũng gây áp lực rất lớn tới những người thân của người
đồng tính. Khi được hỏi về giới tính của bố, mẹ, con, em, chồng,
vợ, bạn hữu... dù biết rõ người thân của mình thuộc diện “lửng lơ 8 vía” thì họ vẫn dứt
khoát phủ nhận, cố chứng minh cho bằng được sự rõ ràng về giới
tính của người thân, để “bảo vệ
danh dự” cho người thân của mình.
Trong cuộc sống, có những người bỗng dưng thay
đổi đối tượng tình dục, từ dị tính sang đồng tính với lời bao biện
do tiếp xúc nhiều với người đồng tính vì công việc, vì stress hoặc
vì bất hạnh trong cuộc sống vợ chồng nên đã “vô tình chuyển hệ”... Họ đưa ra những lý lẽ, rằng đã
từng yêu rất nhiều người khác giới, rằng đã xây dựng gia đình từ khi
còn rất trẻ, thậm chí đã hai, ba lần xây dựng gia đình và “chuyện
ấy” luôn được bạn đời “tấm tắc”
không chê vào đâu được... Tóm lại họ không thừa nhận mình là người
đồng tính mà đổ lỗi cho hoàn cảnh. Họ không biết hoặc có thể họ
biết nhưng cố tình phủ nhận những “xung
năng tình dục đồng giới” tồn tại trong cơ thể họ đang ở dạng
tiềm ẩn nên việc thừa nhận sự mập mờ về giới tính của họ (bấy
lâu) là điều không tưởng. Thực chất, nếu là người có giới tính rõ
ràng thì họ không thể “bị”
người khác lôi kéo vào các mối tình đồng giới, trừ phi vì mục đích
kinh tế, vụ lợi.
Cũng có người “bị”
đồng tính nhưng không biết mình là đồng tính, bởi họ vừa lớn lên là
xây dựng gia đình, rồi sinh con đẻ cái, có cuộc sống “bình thường” như bao gia đình dị
tính, có khác chăng là trong con người họ luôn có cảm giác bị bức
bối, hụt hẫng và thiếu thiếu... một “thứ
gì đó” rất quan trọng nhưng cũng rất mơ hồ về lĩnh vực tình
cảm, nên cuộc sống gia đình của họ không được suôn sẻ. Giáo sư
Elisabeth Badinter giải thích: “Thông thường
những người đàn ông này cưới vợ hoàn toàn thực tâm, không biết những
xung năng đồng tính luyến ái của mình. Cưới vợ và có con dưới mắt
họ là một giấy chứng nhận về sự bình thường. Phần lớn họ chỉ
nhận ra sự đồng tính luyến ái của mình khi đã cưới vợ và làm bố.
Sự có ý thức đến dần dần, đau đớn và tạo mặc cảm tội lỗi một
cách khủng khiếp (Nhân dạng nam, trang 352). Báo cáo điều tra của
ông Frader Green cho chúng ta biết rõ hơn về người đồng tính: “Trong số người đồng tính, có 20%
thuộc dạng tinh thần, chưa từng có quan hệ tình dục (có nghĩa chỉ
“yêu thích” người cùng giới trong suy nghĩ, tình cảm), có 35% thỉnh
thoảng có quan hệ tình dục đồng giới và 15% thường xuyên có quan hệ
tình dục đồng giới (...) Những
khúc mắc tâm lý giới tính của những “người vợ”là đàn ông và những
“người chồng” là đàn bà càng nghiêm trọng hơn. Họ thường rơi vào thế
làm chủ trong dạng “đồng tính luyến ái.” (Tâm sinh lý nam nữ, Ma
Xlao Lian; trang 200). Với nhóm người này, khi gặp “đối tượng đặc biệt” trong hoàn cảnh cũng “đặc biệt” sẽ lao vào cuộc tình
đồng giới rất mãnh liệt. Ngôn ngữ dân gian gọi họ là kẻ “đa hệ”,
còn thuật ngữ của các nhà tâm sinh lý tình dục học gọi họ là
người “lưỡng tính luyến ái”, có
nghĩa họ là người có nhu cầu quan hệ sinh lý với cả 2 giới.
Điểm chung nữa thường thấy ở người đồng tính
là sợ sự đồng tính. Không ít người cho rằng sở dĩ bị đồng tính là
do những người đồng tính thích như vậy. Thực ra, người đồng tính
không thích như vậy và họ không có quyền lựa chọn khuynh hướng tính
dục. Với người dị tính, chuyện đồng tính chỉ thực sự “ghê sợ” khi có sự “tiếp xúc thân mật” hoặc “thể hiện tình cảm” từ đối tượng
cùng giới nhưng với người đồng tính, sự “ghê tởm” đó luôn thường trực trong suy nghĩ, hành động.
Mặc dù ghê sợ sự đồng tính nhưng người đồng
tính không thể “triệt tiêu” được
ham muốn quan hệ sinh lý với người đồng giới. Họ lập hàng rào ngăn
cản “tình yêu đồng giới” nảy nở
nhưng chính họ lại tự động phá bỏ vì ý chí không thắng được tình
cảm. Bằng lý trí, họ lẩn tránh những gì liên quan tới chuyện đồng
tính, thậm chí trốn chạy người họ say đắm nhưng những xung năng tình
dục đồng tính thúc giục, đến chừng mực nào đó khiến họ bị khuất
phục, gục ngã thật thảm hại. Đó chính là mâu thuẫn, là nỗi đau
không thể vượt qua của người đồng tính. Và đây cũng là điểm chung
nữa của người đồng tính.
Trong cuộc sống, có người biết rõ mình có
khuynh hướng tình dục đồng tính, hoặc mơ hồ thấy những “bất ổn” về nhu cầu tình
cảm và sinh lý đang tồn tại trong con người, nên “cố gắng” hoàn thiện tố chất đàn ông của mình theo chuẩn
mực của văn hóa truyền thống nhưng lại quay sang miệt thị, tấn công
những người đồng tính khác. Trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống, khi
có cơ hội, họ sẽ lôi người đồng tính hoặc chuyện của người đồng
tính ra để gây cười, để khẳng định mình “rõ ràng” về giới tính. Tại sao họ làm vậy? Giáo sư
Elisabeth Badinter giải thích: “Thực
ra, sự sợ đồng tính liên quan tới nỗi sợ thầm kín của những ham
muốn đồng tính luyến ái của chính riêng bản thân họ (...). Nỗi sợ
đồng tính luyến ái vạch trần ra điều mà nó tìm cách che đậy”.
(Nhân dạng nam, trang 240). Giáo sư Elisabeth Badinter cũng khẳng định:
Những người đàn ông thực thụ thường không có thái độ ác cảm khi giao
tiếp với người đồng tính vì họ tự tin vào tố chất đàn ông của họ,
không sợ tính nam của mình bị đe dọa. (Bà cũng không quên chua rằng,
người có tư tưởng “bài người đồng
tính” mạnh mẽ thường là người thuộc dạng “dân trí thấp”, chỉ số thông minh không cao.). Tuy nhiên, theo
thiển ý của người viết, “bản năng tự vệ” trong con người họ - người
đàn ông dị tính - vẫn có những biểu hiện để tạo ra “khoảng cách” nhất định khi tiếp
xúc với người đồng tính.
Nguyên nhân dẫn đến đồng tính từng được các
nhà khoa học cho rằng do gen, hooc môn hoặc nhiễm sắc thể trong cơ thể
bị xáo trộn, biến đổi. Nhưng qua các thực nghiệm khoa học, các cuộc
điều tra và thăm dò dư luận thì lời khẳng định đó bị sụp đổ.
Khi giải phẫu kiểm tra gen của người đồng tính,
người ta thấy nhiễm sắc thể không thay đổi mà chỉ có sự biến đổi
rất nhỏ về gen. Còn hooc môn chỉ có sự thay đổi về ngưỡng cảm thụ
nội tiết tố tình dục vào tuổi dậy thì. Đấy chưa phải là căn nguyên
cho hành động đồng tính phát triển.
Đi xa hơn, các nhà tâm sinh lý tình dục đã tiến
hành các cuộc khảo sát, điều tra xã hội học về đồng tính luyến
ái. Người ta thấy có những gia đình, qua mấy thế hệ không có ai là
người đồng tính nhưng bỗng dưng xuất hiện một chú “gà cồ” lạ hoắc không chịu cất tiếng gáy. Người ta cũng
thấy có gia đình hoặc vợ hoặc chồng là người đồng tính nhưng con
cái của họ sinh ra giới tính lại rất rõ ràng.
Qua các cuộc thử nghiệm tự nguyện, người ta
tiêm hooc môn nam cho người đồng tính nam, hooc môn nữ cho người đồng
tính nữ thì kết quả trái với mong muốn: Họ (người đồng tính) không
thay đổi khuynh hướng tính dục, trái lại càng kích thích sự “thèm khát gần gũi” với người
đồng giới nhiều hơn, mạnh hơn. (theo Elisabeth Badinter). Điều đó khẳng định gen, hooc môn không
phải là nguyên nhân gây ra đồng tính luyến ái ở con người. Điều đó
cũng khẳng định: Đồng tính luyến ái không mang tính di truyền.
Vậy nguyên nhân nào dẫn tới chuyện người đàn
ông yêu người đàn ông, người đàn bà yêu người đàn bà? Câu trả lời
vẫn lửng lơ, bỏ ngỏ vì cho đến tận giờ này các nhà khoa học vẫn
chưa tìm ra câu trả lời thống nhất. Chúng ta tạm bằng lòng với cách
giải thích của bác sỹ Kensey, người Mỹ, mặc dù cách giải thích của
ông vẫn còn khá chung chung: Có sự biến đổi nhỏ nào đó ở bán cầu
đại não đã ảnh hưởng tới thiên hướng tình dục. Ông cho rằng, đa số
nhân loại có khuynh hướng tình dục đồng tính nhưng để thành người có
hành động đồng tính, tức người đồng tính, phụ thuộc vào hai yếu
tố: Khuynh hướng tình dục đồng tính nặng hay nhẹ và tác động của
môi trường gia đình, xã hội tới cá thể đó như thế nào. Quan điểm
của ông khá gần với quan điểm của
Peopper Schwartz và Dominic Cappello trong tác phẩm MƯỜI CUỘC NÓI
CHUYỆN (Nguyễn Thị Hương Giang dịch - Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin,
2006): “Trên thực tế, có một số
lượng lớn đàn ông và đàn bà phát hiện ra rằng mình bị những người
đồng giới thu hút, họ có thể là bạn bè hoặc là những người quen
chứ không phải là người khác giới. Họ chẳng bao giờ hé miệng cho
bạn bè hay ngay cả cho bản thân họ biết đâu.” (trang 235). Như vậy,
khuynh hướng đồng tính mặc dù ở con số khá cao nhưng may thay, nhờ có
văn hóa truyền thống, với những chuẩn tắc khắt khe về giới tính và
đạo đức mà hành động đồng tính không trở nên phổ biến.
Đồng tính luyến ái tồn tại từ xa xưa và có ở
mọi tầng lớp trong xã hội, nhưng người ta thường thấy tỷ lệ người
đồng tính cao ở giới nghệ sỹ, kinh doanh, chính trị... Thực ra, tỷ
lệ người đồng tính ở các giới như nhau, nhưng nhóm người trên do họ
là những người hoặc thành đạt, hoặc là người của công chúng nên đời
tư của họ dễ bị để ý, “khai thác”,
chính vì thế mà mọi người mới ngộ nhận về nhóm người này có tỷ
lệ đồng tính cao hơn các nhóm khác.
Câu chuyện về nam ca sỹ Quang Dũng chúng tôi
trích dẫn dưới đây không ám chỉ anh là người đồng tính mà chỉ lưu ý
điều: Người thành đạt, nhất là khi lại là người của công chúng,
thường “được” dư luận “quan tâm thái quá” đến cuộc sống
riêng tư, mà sự “quan tâm” ấy, đôi khi vô tình đã hủy hoại tương lai của
một con người:
Ca sỹ Quang Dũng nổi tiếng nhờ hát nhạc Trịnh
đã làm dư luận “rối tung rối mù”
về lối sống “lạ hoắc” của
mình. Người ta không chỉ “chửi” anh
là “chảnh bà cố nội”, là “bon chen”, là “tàn nhẫn” mà còn xì xèo, bàn tán về khuynh hướng tình
dục của anh rất “lập dị”, “khác
người”.... Không ít chuyện “đồn
thổi” ác ý làm Quang Dũng mất niềm tin vào cuộc sống và luôn
trong tâm trạng chán nản. Khi được hỏi: “- Gần đây có lời đồn anh liên quan đến một vụ scandal về giới
tính với một cậu bé ở Hải Phòng không phải là chuyện tiếu lâm chứ?
Tất nhiên anh có thể không nhận!”. Quang Dũng thốt lên cay đắng: “- Sao
cuộc sống lại nặng nề đến vậy? Có lúc tôi không biết giải quyết
mọi việc thế nào, tôi đều tự hỏi mình đó có phải là sự trả giá
khi tôi theo nghiệp ca hát hay không nữa? Trong thời gian đấy bạn bè
thân họ cũng hiểu sai về tôi, đồng nghiệp thì nhìn tôi với ánh mắt
ngồ ngộ, tôi chẳng biết phải giải thích với họ thế nào, đành im
lặng! (Nghĩa Lương - Người đẹp Việt Nam số 158 ngày 15/10/2005). Là
người của công chúng nên “lời đồn”
ác ý ấy dù đúng hay sai cũng làm cho hình ảnh của Quang Dũng bị
hoen mờ.
Trong tác phẩm MỘT THẾ GIỚI KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ,
nhà văn Bùi Anh Tấn miêu tả khá thành công tâm lý nhân vật Nguyễn
Thành Trung khi phát hiện mình là người đồng tính. Là một sĩ quan
trẻ, đẹp trai, tài giỏi, được nhiều người yêu mến, lại sinh trưởng
trong một gia đình gia giáo nên anh rất ghê tởm những “gã pê đê bệnh
hoạn”, luôn tìm cơ hội để mạt sát, thẳng tay đánh đập những “gã pê đê bệnh hoạn” không thương
tiếc. Tại sao Nguyễn Thành Trung làm vậy khi trong anh có “thứ tình
cảm khác lạ” đó từ thủa học trò? Nguyễn Thành Trung làm vậy để
trốn chạy con người thực của mình, để khẳng định mình là thằng đàn
ông đích thực. Nguyễn Thành Trung sẽ làm được điều đó nếu không có
buổi tối định mệnh ở quán cafe của những “gã pê đê bệnh hoạn”: Khuôn mặt đẹp trai, ga lăng nhưng đậm
đặc chất đàn ông và giọng nói du dương, trầm bổng của Hoàng “hoàng tử” đã làm anh chao đảo...
Sau những dằn vặt, những “đấu tranh tư
tưởng”, anh đã tự tìm đến với Hoàng “hoàng tử” và lao vào cuộc tình đồng giới với tất cả sự
khao khát bị dồn nén lâu ngày. Những giằng xé, những đấu tranh tư
tưởng của Nguyễn Thành Trung được Bùi Anh Tấn mổ xẻ, phân tích và
dẫn giải khá sâu sắc, và có lẽ với những kiến giải của mình, nhà
văn (đồng tính) Bùi Anh Tấn đã giúp đọc giả nhìn nhận vấn đề đồng
tính luyến ái bằng ánh nhìn nhân văn và con người hơn.
Công bằng mà nói, người đồng tính là những
người chịu nhiều thua thiệt, đau khổ trong cuộc sống. Trong con mắt
mọi người, dù người đồng tính có tài giỏi, tử tế đến đâu, có ích
cho gia đình và xã hội thế nào thì họ vẫn cứ là “kẻ biến thái”, “lập dị”, bị tránh xa vì “kinh tởm”. Một ông tổng thống, một
nhà bác học hoặc một nhà thơ, một nhạc sỹ thiên tài... nếu đã “bị”
là người đồng tính thì dù có vắt kiệt tài năng, trí tuệ để cống
hiến cho nhân loại vẫn cứ phải đương đầu với sự ghẻ lạnh, “khinh rẻ”
của người đời. Một kẻ giết người, một tên ăn trộm, một gã lừa
đảo... nhiều khi lại được “xã hội”
“tôn trọng” hơn nhiều những người đồng tính. Đấy chính là sự
nghịch lý, là bất công của xã hội dành cho người đồng tính mà
người đồng tính khó đủ sức để vượt qua.
Thực ra người đồng tính không bao giờ muốn họ
là người như vậy. Họ rất đau khổ vì sự “chẳng giống ai” của mình.
Họ cố gắng chống lại sự trớ trêu của tạo hóa nhưng họ càng cố thì
hình như họ càng bất lực. Sự kỳ thị của gia đình, xã hội không
giúp họ sửa đổi được sự “sai lệch”
về khuynh hướng tình dục (dù ít dù nhiều), mà còn làm cho họ có
thái độ bất cần đời, “hăng hái”
hơn trong việc thể hiện bản thân và lôi kéo những người đồng cảnh.
Khi được hỏi: Nếu phát hiện ra người thân của
mình là người đồng tính bạn sẽ làm gì? Đa số trả lời sẽ khuyên
giải để người thân có đời sống tình dục bình thường. Nếu khuyên
giải không được sẽ “cưỡng chế”
bằng nhiều hình thức, miễn sao người thân của mình thoát khỏi sự
“căn bệnh nhơ nhuốc” đó.
Các nhà khoa học khuyến cáo: Muốn người thân
của mình điều chỉnh được sự sai lệch về đối tượng tình dục, trước
hết phải bình tĩnh, tìm hiểu xem người thân của mình “bị” đồng tính ở mức độ nào để
có biện pháp cụ thể. Dù người thân “bị”
đồng tính “nhẹ” hay “nặng” thì đều phải mềm mỏng, tâm
lý và thật sự kiên trì. Không nên biểu hiện sự lo lắng, đau khổ cho
người thân của mình biết. Tuyệt đối không làm tổn thương tới lòng tự
trọng của họ, ví như: Nói cho người khác biết, sỉ nhục, đánh
đập,... càng làm cho họ có những phản ứng tiêu cực: Công khai khuynh
hướng tình dục của mình, bỏ nhà ra đi, tìm đến với cái chết...
Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi hỏi những
người đồng tính 3 câu hỏi:
1. Gia đình phản ứng thế nào khi biết bạn là
người đồng tính?
2. Sự lo lắng của người thân ảnh hưởng thế nào
tới khuynh hướng tình dục của bạn?
3. Tỷ lệ người đồng tính từ bỏ được quan hệ
đồng tính là bao nhiêu sau khi được sự “quan tâm” của gia đình?
Chúng tôi hy vọng những câu trả lời của họ sẽ
giúp ích cho bạn trong việc “khuyên
giải” người thân của mình, nếu chẳng may người thân là người đồng
tính, có tác dụng tích cực hơn.
Với câu hỏi 1: 10 % trả lời người thân của họ
không có phản ứng gì. 20% trả lời người thân của họ đau khổ nhưng khuyên
họ phải từ bỏ “căn bệnh đua đòi”
vì danh dự bản thân và gia đình. 70% trả lời người thân của họ rất
bực tức, kinh tởm khi biết họ là người đồng tính nên đã cấm đoán,
miệt thị, đánh đập họ... bắt họ phải “từ bỏ bệnh xấu hổ” nếu không sẽ “từ mặt”, đuổi ra khỏi nhà.
Với câu hỏi 2: 80% trả lời cảm thấy xấu hổ,
“nhục nhã”, quyết tâm “thay đổi” khuynh hướng tình dục của mình nhưng
rất tiếc không làm được. 10% không trả lời. 10% còn lại thì lao vào
các mối quan hệ đồng tính công khai hơn, mạnh mẽ hơn.
Với câu hỏi 3: 15% trả lời không biết vì chưa
gặp những trường hợp như thế. 35% trả lời đã gặp nhưng số lượng
không nhiều nên không thể biết được tỷ lệ là bao nhiêu. 50% còn lại
thì không tin người đồng tính sẽ quay sang quan hệ dị tính được vì
họ đã từng gặp những người quyết tâm từ bỏ tình dục đồng tính
nhưng thời gian gian quay lại quan hệ đồng tính cũng không lâu.
Chúng ta thừa nhận, xã hội hiện đại tuy có
thay đổi đôi chút khi nhìn nhận về vấn đề đồng tính nhưng thái độ
“kinh tởm” sự đồng tính có lẽ sẽ bất biến theo thời gian. Người
đồng tính vẫn cứ mãi là số đơn lẻ “lạc
loài” trong sự kỳ thị của số đông nhân loại. Xét về mặt tích
cực, sự “sợ hãi và kinh tởm”
chuyện đồng tính có giá trị rất lớn trong việc củng cố và bảo vệ
tính nam của người đàn ông, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển
theo chiều hướng tích cực.
Ngoại trừ những người đồng tính sống sa đọa,
bất cần đời; ngoại trừ những kẻ lợi dụng chuyện đồng tính làm băng
hoại văn hóa truyền thống và nền tảng đạo đức thì những người đồng
tính đều cần nhận được sự cảm thông từ gia đình, xã hội bằng thái
độ khách quan, độ lượng. Sự kỳ thị của xã hội với người đồng tính
không giúp họ “thay đổi” được
khuynh hướng tính dục, trái lại càng làm cho họ bất mãn, mặc cảm và
nảy sinh tư tưởng “nổi loạn”, dẫn đến những hệ lụy đau lòng.
Bất luận người đồng tính là ai? Mức độ đồng
tính như thế nào? Thì người đồng tính đương nhiên phải chấp nhận:
Chừng nào xã hội hiện đại chưa thật sự nghiêm túc tiến hành nhân
dạng người đàn ông thì chừng đó, người đồng tính nam nói riêng, người
đồng tính nói chung còn bị coi là “quái
vật”, “lập dị”, “cản trở” sự phát triển của loài
người. Đấy là thách thức lớn mà người đồng tính khó có thể vượt
qua.
Hỡi chàng trai của thế kỷ XXI!
Nếu chẳng may chàng là người đồng tính, xin
đừng bi quan, chán nản. Hãy tâm niệm nằm lòng: “Muốn phát triển thành người đàn ông là một cuộc đấu tranh
không ngừng ở mọi lúc”. Hãy quyết tâm sửa chữa những “trục trặc”
do tạo hóa gây ra để “ngạo nghễ”
khẳng định tố chất đàn ông đích thực của mình. Nếu mọi cố gắng
vẫn vô vọng thì lúc bấy giờ hãy nhìn thẳng vào sự thật con người
mình mà điều chỉnh lối sống sao cho phù hợp, tốt cho mình nhất.
Cuộc sống chỉ tốt đẹp, hữu ích và đáng yêu
hơn khi ta sống lành mạnh, lạc quan và trân trọng giá trị của cuộc
đời.
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :
Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ