Nguồn:
Kẹt nỗi
tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài
Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi
vào lý lịch của ông và các con ông hai
chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác
tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng
ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc
đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác
tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục
cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái.
Sự đổi đời diệu kì.
http://khovanbolap.blogspot.com/2017/12/sai-gon-giai-phong-toi.html
Tác
giả Nguyễn Quang Lập
SÀI
GÒN GIẢI PHÓNG TÔI
Nguyễn Quang Lập
Mãi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết,
ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ,
chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp. Từ
thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng
quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô
giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không
ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận
hưởng “Ngày trọng đại”.
Xe
tăng quân đội Bắc Việt húc đổ cổng Dinh Độc Lập
Dù chưa
được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút
bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở
Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết
bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra,
và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế
là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản
xuất được cái bút tài tình thế kia.
Tối hôm
đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không
chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết
thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh
túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn
lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước
sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các du hành vũ trụ,
người thường không bao giờ có.
Thằng Minh khoe cái cassete ba nó gửi cho
nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với
tôi cassete là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassete của
một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng
đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có. Suốt mấy
ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của
mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thất vọng vô cùng không ngờ tiếng của
tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy
tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên,
không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ
ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai
tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng
Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casete, lần đầu tiên chúng tôi được nghe
nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca số 7. Kết thúc Sơn ca số 7 thằng Hoan
bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!
Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào
tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kì nghỉ hè năm
sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được
đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của
ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy
ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.
Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ
lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực
lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng
đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của
ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.
Góc ảnh về vỉa hè Sài Gòn trước 1975
Góc ảnh về vỉa hè Sài Gòn trước 1975
Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác, tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp
ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không
nghĩ tiếng dạ ấy giành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có
ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ
cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh
lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm
phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các
mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một
nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí
là phi lí.
Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà
chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà
đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những
bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng
càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng
hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp
cũng ngu xuẩn. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm
vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.
Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng
mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt
sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn
đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu
dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi.
Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng
đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ
tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống
cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen
chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm
nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Capstan, tự thấy mình lên hẳn mấy
chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn
chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ
chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như
chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ
đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.
Năm trong khuôn viên của Thảo Cầm Viên, đền thờ vua Hùng là ngôi đền nổi tiếng có tuổi đời gần một thế kỷ của Sài Gòn. Ngôi đền này được nhà cầm quyền Pháp cho xây dựng năm 1926 theo kiến trúc cung đình nhà Nguyễn
Năm trong khuôn viên của Thảo Cầm Viên, đền thờ vua Hùng là ngôi đền nổi tiếng có tuổi đời gần một thế kỷ của Sài Gòn. Ngôi đền này được nhà cầm quyền Pháp cho xây dựng năm 1926 theo kiến trúc cung đình nhà Nguyễn
Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà
là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường
hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách.
Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết
nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận
của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác.
Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nội chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất
bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in
sách Mác - Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả
Mác - Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.
Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với
tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt
nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi
sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng
sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi
tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải
phóng.
Nguyễn Quang Lập
Thành thật và can đảm.
Trả lờiXóa