Tác giả Lâm Bích Thủy
TÌNH
VÀ XUÂN TRONG THƠ TÌNH YẾN LAN
Lâm Bích Thủy
Từ trước tới nay, nói về “thơ
tình” hay “mùa xuân” thì người ta
chỉ nhắc tới Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh... chứ mấy ai biết
đến tình và xuân trong thơ linh Lân tức Yến Lan của Bàn Thành tứ hữu của miền đất
vang lừng thế võ.
Ai đâu biết, có bao nhiêu suối tình và xuân trong thơ của
nhà thơ Yến Lan. Những con suối tình đã âm thầm chảy không ngừng nghĩ, bền bỉ,
dạt dào cho tình yêu quê hương và mùa xuân của nhân loại trong thơ Yến Lan. Cuối
năm đến với thơ tình và xuân của Yến Lan để rung động trước vẻ đẹp của non sông
đất nước và tình người cũng là để nhà thơ dắt ta đi qua cuộc hành trình nhân thế
với những nét tế vi của cuộc sống.
Đề tài về tình yêu văn học nhân loại “nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển” Đặc biệt là thơ mới 1930-1945
luôn choáng ngợp trong mọi cung bậc của tình yêu. Người ta cho rằng “Thơ Yến Lan không nằm ngoài qui luật đó.
Nhưng thơ tình Yến Lan với cái riêng trong phong cách đã cho ra đời nhiều bài
thơ tuyệt tác.” Đóng góp của ông trong mảng đề tài này là cái chất riêng
khó gặp ở phong cách thơ khác cùng thời. Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam” từng
đánh giá thơ Yến Lan “có cái không khí là
lạ nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích.”
Sắc xuân và tình yêu của linh Lân như những con suối âm thầm
chảy cả một đời thơ:
Mây mãi sa đà đỉnh núi cao
Chim say tổ ấm chẳng rời nhau
Nếu không ngọn suối ra sông lớn
Một chút tình quê biết gửi đâu”
(Ơn suối)
Thật vậy, nếu tình yêu trong thơ Xuân Diệu được nhận định “Vừa
có cái cao khiết của tâm hồn vừa có cái cường tráng lành mạnh của nhục thể” thì
tình yêu trong thơ Yến Lan rất chân thật trong cảm xúc bởi được bao phủ lớp
sương khói bàng bạc, huyền diệu, thơ mộng. Cảnh vật, con người được ông tả hết
sức bình thường nhưng được nhà thơ phủ lên không gian thơ một lớp sương khói của
thời gian.
Ai về xóm Cửi năm năm trước
Đều thấy em ngồi dệt đoạn tơ
Quanh em vàng tựa trời gieo xuống
Vàng ở trong màu xuân lắm thơ
(Vàng)
Hình ảnh đẹp của cô
thôn nữ đang ngồi quay tơ, dệt vải bình thường nhưng hình ảnh bình thường ấy của
cuộc sống được nhà thơ vẻ đậm nét huyền diệu. Người đọc được chìm trong không
gian vàng huyền hoặc, nhẹ nhàng và thơ mộng
Không biết tự bao giờ, nỗi buồn đã đi vào thơ ca, trải dằng
dặc theo cuộc sống nhân loại. Với Nguyễn Du đó là nỗi đau của đời: Trong “Kiều”
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Còn nữ sĩ Xuân Hương
là nỗi buồn, ngán ngẫm cho duyên phận không trọn vẹn như mong ước (Tự tình)
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẽ tí con con
Xuân Diệu thì ngẫn
ngơ buồn vì cô đơn bơ vơ, ngay trên mảnh đất quê hương
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn
Hàn Mặc Tử thì tái tê:
Thân
tàn ma dại đi rồi
Rầu
rầu nước mắt bời bời ruột gan
(Muôn năm sầu thảm)
Với tính cách hiền
hòa, kín đáo và tế nhị, thơ tình Yến Lan không thể hiện sự đòi hỏi của ham muốn
mãnh liệt. Cả với nỗi buồn phải chờ đợi mỏi mòn Yến Lan cũng trải nó ra man
mác:
Lầm lũi em đi chẳng nói năng
Vắng em anh cũng thắt buồng gan
Gần nhau hay phải xa nhau mãi
Mặt biển tình ta dải thẳng băng
(Cam chịu)
Tình yêu trong thơ
ông dù dang dở, song không phải “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở/Đời mất vui khi
đã vẹn câu thề” (Hồ Dzếch), bởi cái triết lý rất nhẹ nhàng mà thâm thúy của ông
về qui luật cuộc đời:
Cái triết lý về thời
điểm hạnh phúc cứ theo mãi kiếp người, dằn vặt, trăn trở. Cảm nhận về tình yêu
thì nhẹ nhàng, trong sáng nhưng lại khắc khoải khôn nguôi
Em đi, ngày tháng biệt
mùi tăm
Kén đã luân sinh mấy kiếp tằm
Một mảnh hồn ta còn đọng mãi
Trên vành nong úa sắc thời gian
(Mùa xuân này lạnh lắm
em ơi)
Viết về tình yêu, Yến
Lan thường mượn hình ảnh ẩn dụ “Thuyền và bến”. Đó là hình ảnh trở đi trở lại
như một bài ca dao, nhưng thơ Yến Lan vẫn rất mới, mới ở thể thơ, ở cảm hứng
thơ. Không hoảng loạn như Hàn Mặc Tử, không đắm say, cuồng nhiệt như Xuân Diệu,
không kỳ bí như Chế Lan Viên; Yến Lan cứ nhẹ nhàng, từ tốn, giản dị như cuộc sống.
Nhưng cuộc sống vẫn luôn vận động, biến chuyển với cái triết lý riêng của nó.
Đó là nỗi buồn về những cuộc tình dang dở, là nỗi khát khao được yêu âm thầm mà
mãnh liệt, là niềm tự hào được sống, được là tinh hoa và được liên đới với bao
kiếp người:
Ta đang sống vì có người đã chết
Hồn kết tinh bằng bao nhớ thương xưa
Đời lớn nhanh và mạnh như bẹ dừa
Tôi là cả tinh hoa muôn thế kỷ
Sống phút sống của hàng ngàn thi sĩ
Mơ giờ mơ của bao cửa không gian
Mơ hồn xuân như đã mở thiên đàng
Tôi sống khỏe và hoa hồn độ nở
(Những giọt bông hường)
Tình yêu đôi lứa
trong thơ Yến Lan không dữ dội, cuồng nhiệt mà đằm thắm, thiết tha lắm!
Vì với tình tôi phải nhẹ nhàng
Phải là ý ngọc, phải
tim vàng
Phải là trọn vẹn, là trong sáng
Là một bài thơ khắc chữ nàng
(Đồng nội hồn tôi)
Còn thứ tình nào mảnh
liệt hơn thế khi dòng trường giang không còn cuộn sóng và lòng người trở thành
một bến đò của dĩ vãng, của ngàn năm đợi:
Em đi bờ bãi cũng theo đi
Sóng lặng trường giang trải phẳng lì
Từ ấy lòng anh làm cố độ
Câu thơ chờ đợi hóa chòm si
(Cổ độ)
Quê hương trong mỗi
người là sự mặc định của số phận. Người ta có thể có nhiều vợ, nhiều chồng
nhưng quê mỗi người chỉ một mà thôi. Chính vì triết lý rất đời ấy, tình quê của
Yến Lan không bao giờ đổi thay, không bao giờ chối bỏ. Sống đời nô lệ, bị áp bức
thơ ông thể hiện trạng thái “đau, ngơ ngẩn, sầu muộn, quặn mình, nức nở” đến
tái tê trong “Bình Định vào năm 1935”.
Nhánh tòng bá có đau vì xứ sở
Chớ quặn mình thêm nức nở hồn tôi
Không được sống xin cho cùng được thở
Vạn lý tình trong gió ngọt xa xôi
Bao đời nay, thi sĩ
yêu trăng trong thế bị động, vầng trăng là đối tượng để yêu để được say đắm thở
than. Không hiểu sao, chỉ riêng Bình Định quê tôi, vầng trăng lại phát ra thứ
ánh sáng đến diệu kỳ, lạ lẫm, để các thi sĩ sinh ra trên dải đất này đều bị ám ảnh.
Thứ ánh sáng kỳ ảo đó, với Hàn, trăng ở xa đến vậy mà ông đã sở hữu được để rồi: “Ai mua trăng tôi bán trăng cho” Ông
say ánh trăng như ma cà rồng say máu:
Gió rít tầng cao trăng ngã ngữa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
(Say
trăng)
Ánh trăng trong thơ
Xuân Diệu, thường gợi một không gian rộng đến choáng ngợp như một sự đối lập với
nỗi cô đơn, nhỏ bé của con người:
Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi
………
Trăng sáng , trăng xa, trăng rộng quá
Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ
Với Yến Lan trăng là
chủ động, trăng ấp ủ, nó như chất vi lượng bồi bổ cho cơ thể:
Trăng đi từ tóc đi vào máu
Như sữa tuôn dòng chảy khắp thân
Tôi yêu trăng quá, mê trăng quá
Như má yêu môi, đến đến gần
(trích) Bệnh trăng
Bởi vì chỉ có mình ông được ánh trăng vây phủ, bao bọc nâng
niu vỗ về khi ông vừa lọt lòng mẹ trên bãi cát vàng dưới ánh trăng “Tôi lọt
lòng ra giữa bãi trăng.. Từ đó ánh trăng là tình yêu là cội nguồn Cho nên có hệ lụy là:
Từ thuở lên hai đã yêu trăng
Đã bồng đã ấp, đã nâng niu
Ban ngày tôi ngủ trong lòng mẹ
Lại ngủ trong trăng lúc tắt chiều.
(trích) Bệnh trăng
Yến Lan đã nhẹ nhàng,
đỉnh đạt bước vào làng thơ cùng “Bến My Lăng” với hình ảnh ông lái đò u buồn đợi
khách trên bến sông đầy trăng huyền ảo, ánh trăng chạy dọc theo thời gian và
chiếu sáng lung linh như một nhân chứng lạnh lùng chờ đợi khắc khoải suốt bao
năm, mãi đây vẫn còn ám ảnh lòng khách thơ.
Khi dòng thơ mới chiếm lĩnh trên văn đàn, các thi sĩ thi
nhau làm thơ tình yêu. Thơ tình Xuân Diệu thật giản đơn và hời hợt “Đố ai định
nghĩa được chữ yêu” Không ai trả lời nên ông giải bày tiếp “Có khó gì đâu một
buổi chiều/Gặp người con gái ngây thơ ấy/Rồi thương, rồi nhớ thế là yêu” Có lẽ
tình yêu quá đơn giản như thế nên cuối cùng cuộc tình của ông không trọn bề.
Tình yêu đôi lứa mấy
ai đong, đo, đếm, diễn tả được, cho dù muôn vạn chiếc máy tính siêu hiện đại.
Thời gian, mọi thứ trở nên bất lực nhưng tình yêu trong thơ Yến Lan thì không,
nó trở thành vĩnh cữu...
Dồn lên thành thạch nhũ
Lớp phấn -đá - tình - em
Cuồn cuộn như bão tố
Cơn gió lộng hồn anh
Thời gian vút mủi tên
Em kể gì năm tháng
Tảng thạch nhũ tan ra
Bên gối người sấp mặt
Cơn bão cũng chan hòa
Con suối tình dào dạt
Tình yêu của nhà thơ
thật giản dị, hạnh phúc khi cuộc sống thanh bình ở một vùng quê, lúc ông cháu dạo
chợ ngày Tết cổ truyền khiến ông trở nên tươi trẻ hơn
Ta đến hàng đồ chơi
Ngựa gỗ chen gà đất
Xem nghệ nhân vẽ vời
Có đậm màu dân tộc
Ta đến hàng sứ, sành
Chọn bình hoa chậu kiểng
Vui còn chú môn sinh
Đem biếu chùm lan biển
Sắc màu mùa xuân, hương vị Tết tràn ngập trong thơ ông mặc
dù xuân nhà ông đến muộn hơn:
Vụng sắm cành đào không kịp tết
Ra giêng chợt hé một vài bông
Xuân người lả tả bay đi hết
Ngoảnh lại xuân ta mới chớm hồng.
(Xuân muộn)
Ngoài sắc xuân, tình
đời, tình người nhà thơ không ước mơ gì lớn, ông chỉ chọn cho mình cái quí hơn
- đó là tình người :
Mơ một mùa xuân đẹp
Tình đời rộng bao la
Chớ vin nhà chật hẹp
Cổng khép người lại qua
Thơ tình của Yến Lan
thể hiện sự mạnh mẽ, nhưng tha thiết và nồng nàn. Thế mà đến giờ tôi chưa nghe
ai nhắc một câu thơ tình nào của ông. Tiếc thật!...
Lâm Bích Thủy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :
Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ